Xuất phát từ đòi hỏi gắt gao của quá trình toàn cầu
hóa, cũng như mục đích phát triển kinh tế xã hội, một trong các chủ trương lớn
của Nhà nước trong thời đại mới chính là tận dụng và phát huy tối đa nguồn vốn
đầu tư của các chủ thể trong và ngoài nước có nhu cầu đầu tư kinh doanh. Chính
vì lẽ đó mà bên cạnh các biện pháp khuyến khích đầu tư nhà nước ta đã đưa ra
các biện pháp đảm bảo đầu tư rộng mở. Các biện pháp này đã được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật quốc gia và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia như một bằng chứng pháp lý xác thực, tạo nên sự khuyến khích cũng như
an toàn cho các nhà đầu tư.
Các biện pháp đảm bảo đầu tư là những biện pháp được
thể hiện trong các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính
đánh của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư với mục đích
kinh doanh. Các biện pháp đảm bảo đầu tư chính là những cam kết từ phía nhà
nước tiếp nhận đầu tư trước một số quyền lợi cụ thể của nhà đầu tư.
Theo tinh thần của pháp luật về đầu tư ở Việt Nam, các
biện pháp đảm bảo đầu tư được hiểu cụ thể là các cam kết của Nhà nước Việt Nam
về việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong quá trình
tiến hành dự án đầu tư tại Việt Nam. Các biện pháp đảm bảo đầu tư bao gồm: Bảo
đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm đối xử bình đẳng giữa
các nhà đầu tư; bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu
tư; bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra
nước ngoài; bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi bất thường
của chính sách, pháp luật và một số các biện pháp bảo đảm đầu tư khác.
Được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia
như: Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Luật khuyến khích và đầu tư trong nước; Luật
đầu tư 2005; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… Và trong các Điều ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hiệp
định khung về khu vực đầu tư ASEAN… các biện pháp đảm bảo đầu tư bao gồm những
nội dung cơ bản sau:
Việc quy định về chế định này trong hệ thống pháp luật
về đảm bảo đầu tư của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Với nội
dung chính là lời cam kết thỏa đáng đối với nhà đầu tư về việc không quốc hữu
hóa, không tịch thu vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư bằng các biện
pháp hành chính, Chính phủ đã tạo lập được lòng tin cho nhà đầu tư về quyền sở
hữu chính đáng của họ đối với khối tài sản đem đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Nhà nước chỉ trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu
tư trong trường hợp thực sự cần thiết vì lý do an ninh, quốc phòng hay vì lợi
ích quốc gia. Khi đó, nhà đầu tư nhận được sự thanh toán hoặc đền bù theo giá
thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng, dựa trên tinh thần
đảm bảo lợi ích hợp pháp và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư.
Biện pháp này có hiệu lực kể từ khi các nhà đầu tư
triển khai dự án đầu tư mà không cần phải thông qua thêm bất cứ thủ tục hành
chính nào, được áp dụng đối với tất cả các nhà đầu tư có hoạt động đầu tư theo pháp luật đầu tư của
Việt Nam, không phân biệt đầu tư trong nước hay đầu tư nước ngoài.
Quốc gia càng phát triển và hội nhập sâu vào nền kinh
tế thế giới thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ càng được quan tâm sâu sắc.
Do vậy, việc ghi nhân biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuế là một trong những chế định rất cần thiết và
quan trọng, tạ môi trường đầu tư sạch, khuyến khích đầu tư trong nước và thu
hút đầu tư nước ngoài.
Đây là một trong các nội dung quan trọng mà Việt Nam
phải thực hiện trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, thể hiện thiện chí mở cửa
của nước ta đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bao gồm:
- Mở cửa thị trường đầu tư phù hợp với lộ trình cam
kết
- Không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện một số yêu
cầu nhất định như điều kiện đầu tư, đạt tỷ lệ nội địa hóa, xuất khẩu hàng hóa
hoặc xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định…
Việc nội luật hóa các cam kết này trong các văn bản
pháp lý có giá trị cao nhất trong lĩnh vực đầu tư là yêu cầu quan trọng và
thiết thực, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để có thể đem triển khai trong thực
tiễn.
Chế định này hướng tới một bộ phận riêng, đó là các
nhà đầu tư ngoài nước. Đây là chế định phù hợp với thông lệ quốc tế, liên quan
mật thiết tới quyền lợi thiết thực của các nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với
nguyện vọng chính đáng của họ khi đầu tư vào Việt Nam.
Nội dung là sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài
chính đối với nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư được chuyển ra nước ngoài khoản thu
hợp pháp. Việc chuyển thu nhập ra nước ngoài được thực hiện bằng tiền tự do
chyển đổi theo tỷ giá giao dịch ngân hàng thương mại do nhà đầu tư lựa chọn.
Đây là một chế định thể hiện sự mềm mỏng và ưu đãi của
Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, cho dù thay đổi chính sách
và pháp luật, thì họ cũng luôn được hưởng các quyền chính đáng theo hướng có
lợi nhất cho mình, cụ thể là:
- Nếu chính sách mới, các quy phạm pháp luật mới ban
hành và đi vào áp dụng mà ghi nhận các quyền lợi và ưu đãi cao hơn so với quyền
lợi ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng
trước đó thì họ sẽ được hưởng các quyền lợi và ưu đãi theo quy định mới kể từ ngày
chính sách, pháp luật đó đi vào thực hiện.
- Ngược lại, nếu pháp luật, chính sách mới ban hành mà
ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích hợp pháp nhà đầu tư đã được hưởng trước khi các
quy định đó có hiệu lực thì họ sẽ được hưởng các ưu đãi đã được áp dụng tại
thời điểm cấp phép hay được lựa chọn giải quyết bằng một số biện pháp khác. Như
vậy, về bản chất, chế định này ghi nhận nguyên tắc không hồi tố trong trường
hợp pháp luật thay đổi làm thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư.
Như vậy, trong mọi trường hợp có thể thay đổi về chính
sách hoặc quy định pháp luật từ phía Nhà nước thì quyền lợi tối đa của các nhà
đầu tư đều được đảm bảo. Về phần mình, Nhà nước nhận về một số bất lợi và giành
cho các nhà đầu tư quyền chủ động trong lựa chọn các giải quyết sao cho thỏa
đáng với nguyện vọng và quyền lợi hợp pháp của họ. Điều này thể hiện rõ nét
thiện chí và mong muốn của nhà nước Việt Nam đối với việc khuyến khích và thu
hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
Đây là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận và áp dụng rộng
rãi trên toàn thế giới. Với đa số các quốc gia, nhà đầu tư được lựa chọn và
thỏa thuận cơ chế giải quyết thích hợp, bao gồm: Thương lượng; Hòa giải; Trọng
tài; Tòa án
Bên cạnh đó, việc áp dụng luật nước ngoài để giải
quyết tranh chấp đầu tư có yếu nước ngoài cũng được thừa nhận rộng rãi.
Pháp luật Việt Nam dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí
và sự thỏa thuận tự nguyện giữa các bên đã đưa ra sự đảm bảo cần thiết cho sự
lựa chọn cơ chế giải quyết của các bên khi xảy ra tranh chấp trong quá trình
đầu tư.
Theo đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp
đồng được kí giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư nước
ngoài hoặc tromg điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thì tranh chấp
giữa các nhà đầu tư với cơ quan nhà nước Việt Nam sẽ được giải quyết tại cơ
quan trọng tài hoặc Tòa án Việt Nam. Nếu các bên đã thỏa thuận lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì Tòa án sẽ không thụ lý các tranh
chấp đó. Ngoài ra tranh chấp về đầu tư có yếu tố nước ngoài, thì sự lựa chọn cơ
quan tranh chấp thường được mở rộng hơn với các cơ quan: Tòa án Việt Nam, trọng
tài Việt Nam, trọng tài quốc tế, trong tài nước ngoài hoặc trọng tài do các bên
đề cử lập ra.
Việt Nam ghi nhận biện pháp đảm bảo đầu tư này như một
nguyên tắc cơ bản và hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo sự yên tâm cho
các nhà đầu tư về tính an tòa và ổn định
của ngay cả khi quá trình hoạt động kinh doanh gặp những sự cố khách
quan hay chủ quan, đã lường trước hay không lường trước được.
Ở Việt Nam, đây là một chế định khá mới mẻ được quy
định trong Luật đầu tư 2005, theo đó, trong quá trình hoạt động đầu tư tại Việt
Nam, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đều được áp dụng một mức thống nhất về
giá, phí, lệ phí đối với tất cả hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước kiểm soát. Thực
tiễn áp dụng trong hơn 2 năm trở lại đây đã cho thấy tín hiệu rõ rệt của biện
pháp này, vừa tạo sự hấp dẫn cho môi trường đầu tư tại Việt Nam, vừa phù hợp
với xu hướng hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ.
Có thể nói những biện pháp đảm bảo đầu tư là những quy
định tối thiểu, là nền tảng, cơ sở mà dựa trên đó các nhà đầu tư có thể lựa
chọn hình thức, lĩnh vực cũng như địa bàn đầu tư. Bằng các biện pháp cụ thể nêu
trên, pháp luật đầu tư đã tạo ra những đảm bảo cần thiết về mặt pháp lý để các
nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể yên tâm trong quá trình thành lập và
triển khai dự án. Các biện pháp này được
xây dựng trên tiêu chí: tính đơn giản minh bạch trong các quy định và cách thức
áp dụng chúng trong thực tế; tính công bằng trong tương quan so sánh với các
nhà đầu tư khác và tính hiệu quả đối với việc giảm bớt chi phí về tài chính và
thời gian của các nhà đầu tư.
Hơn nữa, quyền lợi của các nhà đầu tư được bảo vệ một
cách tối đa và nhất quán trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Thật vậy,
các biện pháp đảm bảo đầu tư thường bao gồm các biện pháp đảm bảo về tài sản và
vốn hợp pháp của các nhà đầu tư, các biện pháp đảm bảo công bằng cho các nhà
đầu tư, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư khi tiến hành thực
hiện dự án đầu tư của mình.
Chính từ những mục đích đó mà có thể nhận thấy, việc
ghi nhận các biện pháp đảm bảo đầu tư trong các văn bản pháp lý thừa nhận trên
thực tiễn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó có thể tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tới hiệu quả đầu tư. Bởi khi có môi trường đầu tư thông thoáng và
giàu tiềm năng thì các biện pháp đảm bảo lại càng trở nên thiết thực. Mỗi một
nhà kinh doanh- một nhà đầu tư cần một lời hứa hẹn về sự an toàn cho vốn và tài
sản của họ thì họ mới xây dựng nên những dự án đầu tư có quy mô phù hợp và chất
lượng đảm bảo. Đồng thời, những biện pháp đảm bảo này còn xây dựng niềm tin cho
các nhà đầu tư và tạo ra một một cơ chế thủ tục hành chính thông thoáng, giúp
cho các dự án đầu tư diễn ra minh bạch, hiệu quả, công bằng.
Như vậy, các biện pháp đảm bảo đầu tư là những bằng
chứng rõ ràng và thuyết phục nhất cho sự an toàn cũng như sự ổn định của nguồn
vốn đầu tư, góp phần tăng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, là công cụ
phản án rõ nét nhất thái độ của Nhà nước đối với các nhà đầu tư và dự án của họ
đồng thời nhằm vào một mục đích cao hơn đó là thúc đẩy sự phát triển chung vào
nền kinh tế xã hội của đất nước.
Những biện pháp đảm bảo đầu tư nói trên theo thời gian
sẽ còn được cải thiện hơn nữa trước những đòi hỏi chung của quá trình hội nhập.
Hiện tại, với 7 biện pháp cụ thể nêu trên, Chính phủ Việt nam thực sự đã nổ lực
và cố gắng trong việc tạo ra một hàng lang pháp lý vững chắc cho các hoạt động
đầu tư, tạo thế mạnh cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời hội nhập sâu vào nền
kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó nó còn khẳng định một giá trị thực tiễn, nâng cao
uy tín của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế, hội nhập sâu vào sự phát triển
của kinh tế toàn cầu, tạo môi trường đầu tư sôi động và lành mạnh cho đất nước.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Luật đầu tư năm 2005
2. Trường Đại Học Luật Hà
Nội, Giáo trình luật đầu tư, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007.
3. Đào Vũ Khánh Linh, Khóa
luận tốt nghiệp “Tìm hiểu pháp luật về
các biện pháp đảm bảo đầu tư ở Việt Nam”. Hà Nội, 2007.
4. Hoàng Thị Phượng, Khóa
luận tốt nghiệp “Các biện pháp đảm bảo
đầu tư theo luật đầu tư (2005)”. Hà Nội, 2008.
5. Vũ Lê Quỳnh Ngân, Khóa
luận tốt nghiệp “Pháp luật đảm bảo đầu tư
ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn ”. Hà Nội, 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét