A
- MỞ ĐẦU
Trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải cạnh
tranh nhau trên nhiều lĩnh vực như: sản phẩm, thị trường, giá cả hàng hóa,…Tuy
nhiên, cạnh tranh như thế nào vừa đem lại lợi nhuận, uy tín mà không vi pháp luật
cạnh tranh lại là vấn đề được nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp quan tâm.
Trong hoạt động khuyến mại, làm thế nào để hàng khuyến mại của doanh nghiệp đến
tay người tiêu dùng mà chất lượng hàng hóa không bị phản ánh,…Để tìm hiểu rõ
hơn về hoạt động khuyến mại trong quá trình cạnh tranh, em chọn đề bài số 14: “Thực
trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh”.
B
– NỘI DUNG
I.Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại
1.Khái niệm
Tại khoản 1,
Điều 88, Luật thương mại 2005 định nghĩa: “Khuyến
mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán
hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách
dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Khoản 4, Điều
3, Luật Cạnh tranh quy định: “ Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình
kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
2.Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh gồm các đặc điểm cụ thể:
Thứ nhất, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh
trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận. Trên thị trường cạnh tranh,
để thu lợi nhuận các doanh nghiệp buộc phải thực hiện cạnh tranh với các doanh
nghiệp khác trên cùng thị trường liên quan. Vì vậy, trong quá trình cạnh tranh
mọi hành vi của doanh nghiệp đều được xem xét dưới nhiều góc độ: đạo đức kinh
doanh, vi phạm pháp luật.
Về chủ thể thực
hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp tham gia hoạt động
kinh doanh trên thị trường, có thể là doanh nghiệp, cá nhân, nhóm doanh nghiệp
hoạt động có tổ chức, cá nhân hành nghề tự do.
Thứ hai, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các
thông lệ tốt, nguyên tắc đạo đức kinh doanh, đó có thể là những quy tắc xử xự
chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị
trường.
Thứ ba, hành
vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây
thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng khác. Vấn đề đặt ra,
thiệt hại có phải là dấu hiệu bắt buộc phải có trong quá trình xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh hay không? Trong nhiều trường hợp cơ quan xử lý có thể chấp
nhận việc đe dọa gây thiệt hại, hoặc những
thiệt hại không tính toán được cụ thể về cơ hội kinh doanh là đủ để coi một
hành vi cạnh tranh là không lành mạnh và bị ngăn cấm.
Đối tượng chịu
thiệt hại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm: các nhóm doanh nghiệp
bị ảnh hưởng bởi hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp đối thủ
của doanh nghiệp vi phạm. Và người tiêu dùng – những người có nhu cầu và khả
năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ được xem xét và trở thành khách hàng của doanh
nghiệp vi phạm.
II.Nội dung pháp luật Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Tại Điều 39, Luật cạnh tranh 2004 đã
liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có hành vi khuyến mại,
bao gồm:
1.Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh
doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo
tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.
1. Tổ
chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng
Biểu hiện của hành vi này được thể hiện thông qua những hành vi cụ thể của
chủ thể tiến hành hoạt động khuyến mại như: đưa ra các thông tin sai lệch về giải
thưởng, trao giải thưởng không đúng theo nội dung đã cam kết, công bố trong bản
thể lệ khuyến mại hoặc trong các chương trình quảng cáo trước khi tiến hành
khuyến mại. Các hành vi này có thể được thể hiện như: khuyến mại bốc thăm trúng
thưởng nhưng cố ý không cho phiếu trúng thưởng trong quá trình bốc thăm của
khách hàng; giải thưởng trúng thưởng có giá trị thấp hơn rất nhiều so với thực
tế quảng cáo chương trình khuyến mại. Những hành vi này có tính chất lôi kéo bất
chính người tiêu dùng để họ tham gia chương trình khuyến mại. Doanh nghiệp thực
hiện chương trình khuyến mại đã lợi dụng lòng tin của khách hàng nhằm tiêu thụ
nhiều hàng hóa, dịch vụ để thu được lợi nhuận cao mà không mất nhiều thời gian
và tài sản cho chương trình khuyến mại.
Hành vi vi phạm này đã gây hậu quả
nghiêm trọng tới các đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực, ngành nghề liên
quan bởi thông qua chương trình khuyến mại đã thu hút một lượng khá đông khách
hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Đặc biệt nó gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới lợi ích của người tiêu dùng khi đã tin vào khuyến mại và mất nhiều tiền
nhưng chất lượng hàng hóa được hưởng lại không như mong đợi. Tuy nhiên, với việc
thực hiện hành vi này, doanh nghiệp nếu bị phát hiện sẽ bị mất uy tín, lòng tin
của khách hàng vào chính chủ thể thực hiện khuyến mại, có thể doanh nghiệp sẽ đứng
trước cảnh lao đao do đã lừa dối bạn hàng của mình.
2. Khuyến mại không trung thực
hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng
Khuyến mại
không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng về hàng hóa, dịch
vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai lệch mà mua
hàng hóa hay sử dụng dịch vụ. Hành vi này đã gây tác động xấu tới đối thủ cạnh
tranh, làm giảm mức tiêu thụ hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, trên
một phương diện nào đó còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của khách hàng
nếu thông tin sai lệch làm họ hiểu chất lượng sản phẩm theo hướng có lợi cho
mình nhưng trên thực tế chất lượng lại
kém hơn rất nhiều.
Khuyến mại
không trung thực còn thể hiện ở việc không trung thực về giá của hàng hóa, dịch
vụ. Biểu hiện của hành vi này là: nâng giá hàng hóa, dịch vụ lên cao rồi sử
dụng chiêu thức khuyến mại hấp dẫn lên đến 50% để thu hút khách hàng. Trước khi
khuyến mại, doanh nghiệp tăng giá cao nhằm mục đích thực hiện chương trình
khuyến mại giảm giá sốc mà không ảnh hưởng đến doanh thu của mình, còn người
tiêu dùng lại lầm tưởng nhận được
khuyến mại .
Mặt khác đi
kèm với khuyến mại là chất lượng hàng hóa, dịch vụ rất thấp, thực tế hàng hóa,
dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng tồn kho, hàng đổi không thanh lý được. Với
chiêu bài này, doanh nghiệp vừa tiêu thụ được hàng hóa lỗi thời, hàng tồn kho
không bán được lại vừa tăng lợi nhuận. Chính hành vi này đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp kinh doanh cùng sản phẩm và gây thiệt hại đến lợi ích, túi
tiền của người tiêu dùng.
Không chỉ
vậy, khuyến mại không trung thực còn thể hiện ở việc đưa thông tin sai lệch,
thông tin mập mờ đến khách hàng. Chẳng hạn trong ví dụ này đã thể hiện rõ hành
vi của chủ thể tiến hành khuyến mại: “ Từ ngày 15-4 đến hết ngày 17-4 nạp tiền
từ 200 000 đồng trở lên sẽ được nhận khuyến mại thêm 170% giá trị thẻ nạp, các
mệnh giá khác nhận được 100%”.
Với hình thức khuyến mại này rất nhiều khách hàng sử dụng mạng Mobifone đã nạp
thẻ 200 000 đồng nhưng kết quả nhiều khách hàng không được khuyến mại. Chương
trình khuyến mại này chỉ dành riêng cho các khách hàng thường xuyên và đã sử
dụng dịch vụ lâu dài mà không phải tất cả khách hàng đều được hưởng. Như vậy,
với việc đưa thông tin không đầy đủ, đã dẫn tới nhiều khách hàng hiểu sai lệch về chương trình khuyến mại gây
thiệt hại tới lợi ích của người tiêu dùng.
Với hành vi
khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối
khách hàng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích vật chất của người
tiêu dùng.
3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ
chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại
Hành vi này
được hiểu rằng trong cùng một chương trình khuyến mại, một doanh nghiệp có
nhiều trụ sở kinh doanh tại nhiều tỉnh thành khác nhau thì phải thực hiện
khuyến mại như nhau. Không được thực hiện khuyến mại tại tỉnh A là 50%, tỉnh B
chỉ khuyến mại 30%. Hay tại cùng một địa bàn khuyến mại không được phân biệt
khách hàng: khách hàng A được hưởng khuyến mại 50%, khách hàng B cùng sử dụng
một hàng hóa, dịch vụ như khách hàng A mà chỉ được hưởng khuyến mại 20%. Nếu
thực hiện hành vi khuyến mại như trên doanh nghiệp đã vi phạm khoản 3, Điều 46,
Luật Cạnh tranh 2004: “Phân biệt đối xử
đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau
trong cùng một chương trình khuyến mại”.
Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra hiểu thế nào là “ khách hàng như nhau” thì luật chưa quy định nên
đã gây ra nhiều tranh cãi, khó khăn trong việc áp dụng. Khách hàng như nhau
trong trường hợp này có thể hiểu là những người cùng sử dụng sản phẩm, dịch vụ
giống nhau trên cùng một địa bàn kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành khuyến
mại. Tuy nhiên, việc pháp luật đưa ra quy định trên có phần chưa hợp lí bởi lẽ:
tại nhiều địa phương, tỉnh thành có mức sống, điều kiện kinh tế khác nhau, việc
chủ thể khuyến mại áp dụng mức khuyến mại khác nhau là hợp lí. Trong nhiều
trường hợp sẽ tạo ra lợi thế kích cầu tốt hơn, do thành phố có mức sống, điều
kiện kinh tế phát triển hơn nông thôn nên khả năng người tiêu dùng tìm đến nhà
cung cấp nhiều hơn nếu có thêm khuyến mại. Ngược lại, ở vùng nông thôn kinh tế
còn gặp nhiều khó khăn, mức sống thấp khiến cho nhu cầu tiêu dùng có phần hạn chế
hơn so với thành thị nên mức khuyến mại có thể thấp hơn so với thành thị. Như
vậy, không phải khi nào áp dụng một mức khuyến mại cho tất cả các khu vực trong
cùng một chương trình khuyến mại cũng là tốt nhất mà cần có sự phân tích thị
trường, đưa ra phương án, chiến lược kinh doanh phù hợp nhất nhằm đem lại lợi
nhuận và khả năng kích cầu cao hơn. Do đó, nhìn dưới góc độ kinh tế, hành vi
này là phù hợp với thực tế kinh doanh trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt
hiện nay.
4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng
đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử
dụng để dùng hàng hóa của mình
Điều kiện bắt buộc của hành vi này là
hành khách phải mang hàng hóa đang sử dụng của một chủ thể khác để đổi lấy hàng
hóa của mình. Thông qua hành vi này, doanh nghiệp tiến hành khuyến mại có thể
nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường do hàng hóa đã có khả năng tác động rất
lớn đến tâm lý người tiêu dùng, khiến hàng hóa của doanh nghiệp nhanh chóng có
mặt, chiếm lĩnh được thị trường.
Tuy nhiên, với hành vi này doanh nghiệp
khuyến mại đã trực tiếp gây rối, cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác, làm phá vỡ sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh,
phá vỡ thói quen tiêu dùng từ trước của người tiêu dùng và quyền tự do lựa chọn
hàng hóa của họ.
5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp
luật có quy định cấm
Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định.
Theo quy định này, ngoài các hành vi khuyến mại không được quy định tại Luật
Cạnh tranh 2004 cũng bị coi là cạnh tranh không lành mạnh.
*Mức xử phạt đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
được quy định tại Điều 34 Nghị định 71/2014
1. Phạt tiền từ
60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Tổ chức
khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
b) Khuyến mại
không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng;
c) Phân biệt đối
xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau
trong cùng một chương trình khuyến mại;
d) Tặng hàng hóa
cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do
doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của
mình.
2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong
trường hợp quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trở lên.
3. Ngoài việc bị
phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp thực hiện các
hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một
hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định
tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định này.
III.Thực tiễn thực hiện pháp luật về
hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
1.Thực tiễn pháp luật về hành vi
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật về hành vi
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46, Luật cạnh tranh khá rõ
ràng, được áp dụng dễ dàng trong thực tế, tạo điều kiện giúp các cơ quan quản
lý cạnh tranh thuận tiện trong việc áp dụng các quy định pháp luật trong quá
trình thực thi.
Tuy nhiên, Tại khoản 3, Điều 46, luật cạnh tranh quy định: Phân
biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại
khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Pháp luật không quy định
như thế nào là “ khách hàng như nhau”. Đó có thể là khách hàng trong cùng một
khu vực địa lý, khách hàng có cùng một giao dịch với chủ thể khuyến mại. Với
việc đưa ra quy định nhưng không có khái niệm hướng dẫn, giải thích khiến chủ
thể thực hiện khó có thể áp dụng đúng quy định pháp luật. “ Quy định tại Khoản
3 điều 46 Luật cạnh tranh đã tạo nên cấu thành phức tạp và rất khó áp dụng
trong thực tiễn. Với cách quy định hiện nay, doanh nghiệp rất dễ lách luật để
thực hiện những hành vi có mục đích tương tự mà vẫn không thể quy kết là vi
phạm luật cạnh tranh. Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần phân chia chương trình
khuyến mại thành hai chương trình nhỏ tổ chức ở hai địa bàn khác nhau với cùng
một thời gian, cùng một điều kiện áp dụng cho khách hàng… nhưng doanh nghiệp
tiến hành hai thủ tục đăng ký khuyến
mại khác nhau thì sẽ không vi phạm Luật cạnh tranh vì không thỏa mãn điều kiện vi phạm là trong cùng một
chương trình khuyến mại”.
Quy định về địa bàn khác nhau: quy định này là không hợp
lý bởi lẽ mỗi vùng, miền, khu vực địa lý khác nhau có điều kiện kinh tế, mức
sống khác nhau. Từ đó, việc áp dụng các chương trình khuyến mại khác nhau trong
nhiều trường hợp đó lại là giải pháp hữu hiệu nhằm kích cầu, đồng thời phát huy
tối đa chương trình khuyến mại. Căn cứ vào điều kiện kinh tế, mức sống của dân
cư tại các vùng miền khác nhau, doanh nghiệp đưa ra các chương trình khuyến mại
phù hợp nhất đảm bảo đồng thời lợi ích của khách hàng tham gia chương trình và
đảm bảo tiết kiệm chi phí cho các chương trình khuyến mại. Do đó, tùy từng
trường hợp doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt về việc phân phối và mức độ
phân phối cho khách hàng nên không thể quy định đó là bất chính.
2.Thực tiễn thực hiện pháp luật về
hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
“Sau 5 năm thực
hiện các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh, Cục Quản lí cạnh tranh đã
tiến hành điều tra 61 vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh (01 vụ trong
năm 2006, 05 vụ trong năm 2007, 13 vụ trong năm 2008, 14 vụ trong năm 2009 và 28
vụ trong năm 2010). Trong đó có 46/63 vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh khởi
xướng điều tra và 15/61 vụ việc điều tra dựa trên căn cứ đơn khiếu nại từ các
doanh nghiệp,cụ thể như sau:
- 28 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh;
- 17 vụ việc liên quan đến hành vi bán hàng đa cấp bất
chính;
- 06 vụ việc liên quan đến hành vi dèm pha nói xấu doanh
nghiệp khác;
- 05 vụ việc liên quan đến hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh;
- 04 vụ việc liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- 01 vụ việc liên quan đến hành vi gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác.
Bên cạnh các vụ việc được xử lý thông qua tố tụng cạnh
tranh, Cục còn tiếp nhận, xem xét và cho ý kiến hướng dẫn, tư vấn về pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan
thông qua các thủ tục hành chính thông thường. Cục cũng tiến hành tham vấn tiền
tố tụng đối với 62 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh không lành
mạnh, bao gồm các vụ việc Cục khởi xướng tham vấn và các vụ việc phát sinh từ
đơn khiếu nại của các doanh nghiệp”.
Qua số liệu thực tế thực hiện pháp luật cạnh tranh nói
chung và hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong khuyến mại nói riêng cho thấy
pháp luật Cạnh tranh đã phần nào giải quyết được yêu cầu đặt ra của pháp luật
và thực tiễn. Thực tế các vụ việc về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
khuyến mại xuất hiện rất ít chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ vi phạm
luật cạnh tranh trong suốt 5 năm thực hiện, thi hành Luật Cạnh tranh.
Thông qua số liệu trên một mặt cho thấy, các chủ thể tiến
hành khuyến mại đã có ý thức thực hiện đúng quy định của pháp luật nói chung và
Luật Cạnh tranh nói riêng trong quá trình xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp việc tiến hành chương trình khuyến mại có sự vi phạm pháp luật
cạnh tranh nhưng chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Trên cơ sở tổng hợp các vụ việc vi phạm, ta có thể thấy
mức độ ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đối với
các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực:
Lĩnh vực
|
Phân bón
|
Ngân hàng
|
Viễn thông
|
Xâm phạm bí mật
|
50
|
25
|
1
|
Ép buộc trong kinh doanh
|
17
|
5
|
0
|
Rèm pha doanh nghiệp khác
|
8
|
12
|
0
|
Gây dối hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
khác
|
8
|
12
|
1
|
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
|
8
|
5
|
0
|
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
|
17
|
35
|
21
|
Phân biệt đối xử của hiệp hội
|
33
|
45
|
2
|
Bán hàng đa cấp bất chính
|
0
|
10
|
0
|
Nguồn: Cục
quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương 2010: “ Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong
10 lĩnh vực của nền kinh tế, tr.220, 269, 393
Qua số liệu
thống kê trên, ta thấy mức độ ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh đối với các doanh nghiệp chiếm tỉ lệ khá cao, nhất là trong
lĩnh vực ngân hàng, tiếp đó là phân bón và viễn thông. Như vậy, hành vi khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh có mức độ ảnh hưởng rất cao tới hoạt động
của các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành nghề kinh doanh, đồng thời ảnh
hưởng tới quyền lợi người tiêu dùng và không ai khác trong một giới hạn nhất
định nếu bị phát hiện thì uy tín, danh tiếng của chủ thể thực hiện khuyến mại
cũng bị suy giảm.
Điển hình
nhất trong hành vi vi phạm của các chủ thể trong việc thực hiện hành vi khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh phải kể tới các chủ thể thông qua ví dụ:
*Ví dụ về: Tổ chức khuyến mại mà gian
dối về giải thưởng
Vi phạm của Công ty điện tử LG được
thực hiện cụ thể: “ Ngày 13/03/2006 tại khách sạn New World diễn ra sự kiện bốc
thăm trúng thưởng. Giải thưởng trong chương trình này gồm: xe ô tô Toyota Innova trị giá gần
30.000 USD (giải nhất), xe tải Hyundai 1,25 tấn (giải nhì), xe máy Honda Dylan
(giải ba) với tổng giá trị hơn 2 tỷ đồng diễn ra tại nhiều tỉnh thành từ miền
Trung trở vào.
Chương trình khuyến mại chia làm ba thùng bốc thăm, tuy
nhiên trong ba thùng phiếu đang được rút thăm không có lá phiếu từ 200 trở lên
trong khi khách hàng chủ yếu sở hữu lá phiếu từ 200 trở lên. Ngoài ra, trong
chương trình này còn xuất hiện hiện tượng bất thường đó là: một công ty tham
gia có đến 79 phiếu trên tổng số 168 phiếu hợp lệ.
Theo quy định của chương trình
khuyến mại này, để có được một phiếu thì phải mua 100 bộ máy lạnh LG, 300 bộ
thì được 4 phiếu. Điều đó có nghĩa công ty kia phải mua đến hơn 5.900 bộ
máy lạnh mới có được 79 phiếu. Trước sự thắc mắc của khách hàng, LG trả lời là:
công ty này đã mua đúng số lượng máy (hơn 5.900 bộ). Và người mua có thể đặt
cọc 8% trị giá đơn hàng thì được tính là đã mua và được phát phiếu. Chương
trình khuyến mại của công ty LG đã gian dối về giải thưởng, lợi dụng lợi ích
của khách hàng để tiêu thụ hàng hóa”.
Hành vi trên của công ty điện tử LG đã
vi phạm khoản 1, Điều 46, Luật Cạnh tranh 2004. Công ty LG đã gian dối trong
việc trao thưởng, cụ thể: trong thùng bốc thăm giải thưởng không tồn lại những
lá phiếu của khách hàng. Hành vi này được coi là một hình thức cạnh tranh không
lành mạnh nhằm lợi dụng lợi ích, lòng tin của khách hàng để tiến hành xúc tiến
thương mại, thu lợi nhuận lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các đối thủ cạnh
tranh, môi trường kinh doanh và chính những người tiêu dùng tham gia chương
trình khuyến mại.
*Ví dụ về: Tặng hàng hoá cho khách
hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh
nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình
“Ngày 18/6/2009, Tập đoàn Viễn thông
Quân đội (Viettel) gửi công văn khẩn tới Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công
thương) và Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông tố cáo hành vi khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh của Công ty TNHH một thành viên Thông tin di động
(MobiFone).
Công văn nêu rõ: trong thời gian
qua tại một số tỉnh như: Đồng Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, An Giang, Cà
Mau, Kiên Giang… xuất hiện các áp phích in màu, quảng cáo giá cước dịch vụ mới
của Công ty Thông tin di động VMS (Mobifone).
Viettel phát
hiện một số phương thức khuyến mại của MobiFone nhằm lôi kéo khách hàng của
Viettel Telecom chuyển sang sử dụng dịch vụ của Mobifone. Tại Hải Dương,
MobiFone thực hiện bán hàng lưu động trên địa bàn xã, thôn với chương trình “Đổi
sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Chương
trình này cho phép khách hàng có thẻ SIM của mạng di động khác còn tài khoản dưới
15.000 đồng và còn ngày sử dụng, có thể đổi lấy miễn phí một thẻ SIM MobiZone của
MobiFone đã có sẵn 50.000 đồng trong tài khoản. Trong vòng 12 tháng, MobiFone sẽ
tặng cho khách hàng mỗi tháng 15.000 đồng.
Viettel
Telecom cho rằng việc MobiFone khuyến mại qua hình thức tặng thẻ SIM MobiZone
cho khách hàng nhưng lại kèm theo điều kiện trao đổi là khách hàng chuyển thẻ
SIM của doanh nghiệp viễn thông khác đồng nghĩa với việc khách hàng chỉ được hưởng
khuyến mại của MobiFone khi từ bỏ việc sử dụng dịch vụ viễn thông của doanh
nghiệp khác để chuyển sang sử dụng dịch vụ của hãng. Hành vi này ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường viễn thông và vi phạm Luật
Cạnh tranh.
Đại diện
MobiFone đã thừa nhận là có một số chi nhánh của Mobifone đã triển khai chương
trình đổi sim theo hình thức khuyến mại từ ngày 1/6/2009 đến ngày 10/6/2009.
Tuy nhiên, Mobifone đã chính thức dừng triển khai chương trình khuyến mại này từ
ngày 11/6/2009, được quy định tại văn bản số 2360/VMS-KH-BH ngày 11/6/2009 của
Công ty VMS.
Ví dụ trên cho
thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Mobifone trên thị trường viễn
thông, chính hành vi này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích của các nhà
kinh doanh viễn thông khác, mặt khác cũng ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng của
khách hàng.
Hành vi vi phạm trên, Mobifone đã vi phạm khoản 4, Điều
46, Luật Cạnh tranh 2004: “ Tặng hàng hoá
cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do
doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của
mình”.
3.Nguyên nhân
Thực trạng trên diễn ra là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do hệ thống pháp luật nước ta quy định không
đầy đủ, không đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa có những hướng dẫn chi tiết về
hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh mà mới chỉ dừng lại ở việc
liệt kê các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46,
Luật Cạnh tranh 2006, từ đó dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau.
Trong một số trường hợp, nhiều chủ thể đã lợi dụng kẽ hở này để thực hiện hành
vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh như: đối với quy định tại khoản
3, Điều 46, Luật Cạnh tranh: chủ thể thực hiện khuyến mại thay vì đăng kí một
chương trình khuyến mại thì nay để áp dụng nhiều mức khuyến mại khác nhau trên
mỗi địa bàn hoạt động, chủ thể sẽ tiến hành đăng kí nhiều chương trình khuyến
mại. Tương ứng với một địa bàn hoạt động là một chương trình khuyến mại.
Thứ hai, nguồn lực thực thi pháp luật cạnh tranh ở nước
ta còn rất thấp. Theo quy định của Điều 52 - Luật cạnh tranh Việt Nam, điều tra
viên phải là những người có thời gian
công tác thực tế ít nhất là 5 năm thuộc một trong các lĩnh vực luật, kinh tế và tài chính. “ Trong khi thực tế
các cán bộ, nhân viên của Cục Quản lý cạnh tranh
hiện nay đến hơn 80% là những cán bộ mới ra trường hoặc có ít hơn 5 năm
kinh nghiệm. Vì vậy, căn cứ các tiêu
chuẩn nói trên, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Công Thương mới chỉ bổ nhiệm gần 20 điều tra viên. Trong khi đó, môi trường cạnh tranh ngày
càng gắt gao mang tính sống còn với doanh
nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý
hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động
kinh tế, cũng như khe hở của các quy định pháp luật hiện hành, v.v. đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi hạn
chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, lợi dụng vị thế độc quyền gây khó
khăn, làm tổn hại đến nền kinh tế”.
Thứ ba, do nhận thức, sự thiếu hiểu biết của chủ thể tiến hành hoạt động
khuyến mại và của người tiêu dùng. Nhiều trường hợp doanh nghiệp tiến hành
khuyến mại cũng không biết việc khuyến mại của mình là hành vi vi phạm pháp
luật cạnh tranh. Bên cạnh đó, người tiêu dùng thì thờ ơ trước hành vi vi phạm
của doanh nghiệp, với quan niệm hành vi
đó không gây ảnh hưởng nghiêm trọng nên lặng im cho qua. Nhưng thực tế hành vi
khuyến mại đó không chỉ gây thiệt hại về lợi ích cho chính khách hàng đó mà còn
ảnh hưởng tới nhiều người tiêu dùng khác và cùng với đó là nhiều doanh nghiệp
là đối thủ cạnh tranh cũng bị ảnh hưởng làm cho môi trường cạnh tranh trở nên
thiếu lành mạnh.
Thứ tư, mức xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh trong hoạt động khuyến mại còn thấp, chưa đủ răn đe, nhiều chủ thể
biết hành vi của mình là vi phạm nhưng vẫn thực hiện hành vi đó do việc thu
được lợi nhuận cao hơn so với việc nộp phạt.
4.Giải
pháp hoàn thiện pháp luật
-Hành vi khuyến
mại khác nhau cho các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại
khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại không mang bản chất của một
hành vi cạnh tranh không lành mạnh do đó cần đưa quy định này về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ra khỏi Luật cạnh
tranh.
-Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các chính sách liên
quan đến cạnh tranh để doanh nghiệp, người tiêu dùng kiểm soát được hành vi của
mình tạo điều kiện xây dựng môi trường
cạnh tranh lành mạnh.
-Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp luật cạnh
tranh cho đội ngũ cán bộ, điều tra viên góp phần làm tốt hơn công tác điều tra,
xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm.
C – KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích thực tiễn
thực hiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ta thấy tình
hình cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong hoạt động khuyến mại hiện nay còn
nhiều bất cập. Các doanh nghiệp đã bỏ qua pháp luật, bất chấp vi phạm pháp luật
để cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đối thủ cạnh tranh
và người tiêu dùng. Vì vậy, pháp luật cần có những quy đinh cụ thể, có sức răn
đe hơn để hạn chế hành vi cạnh tranh không lành mạnh góp phần xây dựng một môi
trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
Thành lập công ty tại Bình Dương
Trả lờiXóaThành lập công ty tại Đồng Nai