Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

A - MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải cạnh tranh nhau trên nhiều lĩnh vực như: sản phẩm, thị trường, giá cả hàng hóa,…Tuy nhiên, cạnh tranh như thế nào vừa đem lại lợi nhuận, uy tín mà không vi pháp luật cạnh tranh lại là vấn đề được nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp quan tâm. Trong hoạt động khuyến mại, làm thế nào để hàng khuyến mại của doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng mà chất lượng hàng hóa không bị phản ánh,…Để tìm hiểu rõ hơn về hoạt động khuyến mại trong quá trình cạnh tranh, em chọn đề bài số 14: Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh”.
B – NỘI DUNG
I.Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động khuyến mại
     1.Khái niệm
Tại khoản 1, Điều 88, Luật thương mại 2005 định nghĩa: “Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định”.
Khoản 4, Điều 3, Luật Cạnh tranh quy định: “ Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
     2.Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh gồm các đặc điểm cụ thể:
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận. Trên thị trường cạnh tranh, để thu lợi nhuận các doanh nghiệp buộc phải thực hiện cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên cùng thị trường liên quan. Vì vậy, trong quá trình cạnh tranh mọi hành vi của doanh nghiệp đều được xem xét dưới nhiều góc độ: đạo đức kinh doanh, vi phạm pháp luật.
Về chủ thể thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường, có thể là doanh nghiệp, cá nhân, nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức, cá nhân hành nghề tự do.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, nguyên tắc đạo đức kinh doanh, đó có thể là những quy tắc xử xự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng khác. Vấn đề đặt ra, thiệt hại có phải là dấu hiệu bắt buộc phải có trong quá trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không? Trong nhiều trường hợp cơ quan xử lý có thể chấp nhận việc đe dọa gây thiệt hại, hoặc  những thiệt hại không tính toán được cụ thể về cơ hội kinh doanh là đủ để coi một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh và bị ngăn cấm.
Đối tượng chịu thiệt hại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm: các nhóm doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh nghiệp đối thủ của doanh nghiệp vi phạm. Và người tiêu dùng – những người có nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ được xem xét và trở thành khách hàng của doanh nghiệp vi phạm.
II.Nội dung pháp luật Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
          Tại Điều 39, Luật cạnh tranh 2004 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trong đó có hành vi khuyến mại, bao gồm:
1.Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. Ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
10. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.
     1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng
         Biểu hiện của hành vi này được thể hiện thông qua những hành vi cụ thể của chủ thể tiến hành hoạt động khuyến mại như: đưa ra các thông tin sai lệch về giải thưởng, trao giải thưởng không đúng theo nội dung đã cam kết, công bố trong bản thể lệ khuyến mại hoặc trong các chương trình quảng cáo trước khi tiến hành khuyến mại. Các hành vi này có thể được thể hiện như: khuyến mại bốc thăm trúng thưởng nhưng cố ý không cho phiếu trúng thưởng trong quá trình bốc thăm của khách hàng; giải thưởng trúng thưởng có giá trị thấp hơn rất nhiều so với thực tế quảng cáo chương trình khuyến mại. Những hành vi này có tính chất lôi kéo bất chính người tiêu dùng để họ tham gia chương trình khuyến mại. Doanh nghiệp thực hiện chương trình khuyến mại đã lợi dụng lòng tin của khách hàng nhằm tiêu thụ nhiều hàng hóa, dịch vụ để thu được lợi nhuận cao mà không mất nhiều thời gian và tài sản cho chương trình khuyến mại.
            Hành vi vi phạm này đã gây hậu quả nghiêm trọng tới các đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực, ngành nghề liên quan bởi thông qua chương trình khuyến mại đã thu hút một lượng khá đông khách hàng đang sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình. Đặc biệt nó gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích của người tiêu dùng khi đã tin vào khuyến mại và mất nhiều tiền nhưng chất lượng hàng hóa được hưởng lại không như mong đợi. Tuy nhiên, với việc thực hiện hành vi này, doanh nghiệp nếu bị phát hiện sẽ bị mất uy tín, lòng tin của khách hàng vào chính chủ thể thực hiện khuyến mại, có thể doanh nghiệp sẽ đứng trước cảnh lao đao do đã lừa dối bạn hàng của mình.
     2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng
Khuyến mại không trung thực là việc đưa thông tin khuyến mại không đúng về hàng hóa, dịch vụ khiến khách hàng nhầm lẫn, tin theo thông tin khuyến mại sai lệch mà mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ. Hành vi này đã gây tác động xấu tới đối thủ cạnh tranh, làm giảm mức tiêu thụ hàng hóa của đối thủ cạnh tranh. Đồng thời, trên một phương diện nào đó còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của khách hàng nếu thông tin sai lệch làm họ hiểu chất lượng sản phẩm theo hướng có lợi cho mình nhưng trên thực tế chất lượng lại kém hơn rất nhiều.
Khuyến mại không trung thực còn thể hiện ở việc không trung thực về giá của hàng hóa, dịch vụ. Biểu hiện của hành vi này là: nâng giá hàng hóa, dịch vụ lên cao rồi sử dụng chiêu thức khuyến mại hấp dẫn lên đến 50% để thu hút khách hàng. Trước khi khuyến mại, doanh nghiệp tăng giá cao nhằm mục đích thực hiện chương trình khuyến mại giảm giá sốc mà không ảnh hưởng đến doanh thu của mình, còn người tiêu dùng lại lầm tưởng nhận được khuyến mại .
Mặt khác đi kèm với khuyến mại là chất lượng hàng hóa, dịch vụ rất thấp, thực tế hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng tồn kho, hàng đổi không thanh lý được. Với chiêu bài này, doanh nghiệp vừa tiêu thụ được hàng hóa lỗi thời, hàng tồn kho không bán được lại vừa tăng lợi nhuận. Chính hành vi này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh cùng sản phẩm và gây thiệt hại đến lợi ích, túi tiền của người tiêu dùng.
Không chỉ vậy, khuyến mại không trung thực còn thể hiện ở việc đưa thông tin sai lệch, thông tin mập mờ đến khách hàng. Chẳng hạn trong ví dụ này đã thể hiện rõ hành vi của chủ thể tiến hành khuyến mại: “ Từ ngày 15-4 đến hết ngày 17-4 nạp tiền từ 200 000 đồng trở lên sẽ được nhận khuyến mại thêm 170% giá trị thẻ nạp, các mệnh giá khác nhận được 100%”. Với hình thức khuyến mại này rất nhiều khách hàng sử dụng mạng Mobifone đã nạp thẻ 200 000 đồng nhưng kết quả nhiều khách hàng không được khuyến mại. Chương trình khuyến mại này chỉ dành riêng cho các khách hàng thường xuyên và đã sử dụng dịch vụ lâu dài mà không phải tất cả khách hàng đều được hưởng. Như vậy, với việc đưa thông tin không đầy đủ, đã dẫn tới nhiều khách hàng hiểu sai lệch về chương trình khuyến mại gây thiệt hại tới lợi ích của người tiêu dùng.
Với hành vi khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích vật chất của người tiêu dùng.
     3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại
Hành vi này được hiểu rằng trong cùng một chương trình khuyến mại, một doanh nghiệp có nhiều trụ sở kinh doanh tại nhiều tỉnh thành khác nhau thì phải thực hiện khuyến mại như nhau. Không được thực hiện khuyến mại tại tỉnh A là 50%, tỉnh B chỉ khuyến mại 30%. Hay tại cùng một địa bàn khuyến mại không được phân biệt khách hàng: khách hàng A được hưởng khuyến mại 50%, khách hàng B cùng sử dụng một hàng hóa, dịch vụ như khách hàng A mà chỉ được hưởng khuyến mại 20%. Nếu thực hiện hành vi khuyến mại như trên doanh nghiệp đã vi phạm khoản 3, Điều 46, Luật Cạnh tranh 2004: “Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại”.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiểu thế nào là “ khách hàng như nhau” thì luật chưa quy định nên đã gây ra nhiều tranh cãi, khó khăn trong việc áp dụng. Khách hàng như nhau trong trường hợp này có thể hiểu là những người cùng sử dụng sản phẩm, dịch vụ giống nhau trên cùng một địa bàn kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành khuyến mại. Tuy nhiên, việc pháp luật đưa ra quy định trên có phần chưa hợp lí bởi lẽ: tại nhiều địa phương, tỉnh thành có mức sống, điều kiện kinh tế khác nhau, việc chủ thể khuyến mại áp dụng mức khuyến mại khác nhau là hợp lí. Trong nhiều trường hợp sẽ tạo ra lợi thế kích cầu tốt hơn, do thành phố có mức sống, điều kiện kinh tế phát triển hơn nông thôn nên khả năng người tiêu dùng tìm đến nhà cung cấp nhiều hơn nếu có thêm khuyến mại. Ngược lại, ở vùng nông thôn kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, mức sống thấp khiến cho nhu cầu tiêu dùng có phần hạn chế hơn so với thành thị nên mức khuyến mại có thể thấp hơn so với thành thị. Như vậy, không phải khi nào áp dụng một mức khuyến mại cho tất cả các khu vực trong cùng một chương trình khuyến mại cũng là tốt nhất mà cần có sự phân tích thị trường, đưa ra phương án, chiến lược kinh doanh phù hợp nhất nhằm đem lại lợi nhuận và khả năng kích cầu cao hơn. Do đó, nhìn dưới góc độ kinh tế, hành vi này là phù hợp với thực tế kinh doanh trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt hiện nay.
     4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình
Điều kiện bắt buộc của hành vi này là hành khách phải mang hàng hóa đang sử dụng của một chủ thể khác để đổi lấy hàng hóa của mình. Thông qua hành vi này, doanh nghiệp tiến hành khuyến mại có thể nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường do hàng hóa đã có khả năng tác động rất lớn đến tâm lý người tiêu dùng, khiến hàng hóa của doanh nghiệp nhanh chóng có mặt, chiếm lĩnh được thị trường.
Tuy nhiên, với hành vi này doanh nghiệp khuyến mại đã trực tiếp gây rối, cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, làm phá vỡ sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, phá vỡ thói quen tiêu dùng từ trước của người tiêu dùng và quyền tự do lựa chọn hàng hóa của họ.
     5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm
Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định. Theo quy định này, ngoài các hành vi khuyến mại không được quy định tại Luật Cạnh tranh 2004 cũng bị coi là cạnh tranh không lành mạnh.
*Mức xử phạt đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Điều 34 Nghị định 71/2014
1. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;
b) Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách hàng;
c) Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
d) Tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.
 2. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.
3. Ngoài việc bị phạt tiền quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 4 Điều 28 của Nghị định này.
III.Thực tiễn thực hiện pháp luật về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
     1.Thực tiễn pháp luật về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Nhìn chung, các hành vi vi phạm pháp luật về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46, Luật cạnh tranh khá rõ ràng, được áp dụng dễ dàng trong thực tế, tạo điều kiện giúp các cơ quan quản lý cạnh tranh thuận tiện trong việc áp dụng các quy định pháp luật trong quá trình thực thi.
Tuy nhiên, Tại khoản 3, Điều 46, luật cạnh tranh quy định: Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Pháp luật không quy định như thế nào là “ khách hàng như nhau”. Đó có thể là khách hàng trong cùng một khu vực địa lý, khách hàng có cùng một giao dịch với chủ thể khuyến mại. Với việc đưa ra quy định nhưng không có khái niệm hướng dẫn, giải thích khiến chủ thể thực hiện khó có thể áp dụng đúng quy định pháp luật. “ Quy định tại Khoản 3 điều 46 Luật cạnh tranh đã tạo nên cấu thành phức tạp và rất khó áp dụng trong thực tiễn. Với cách quy định hiện nay, doanh nghiệp rất dễ lách luật để thực hiện những hành vi có mục đích tương tự mà vẫn không thể quy kết là vi phạm luật cạnh tranh. Theo đó, doanh nghiệp chỉ cần phân chia chương trình khuyến mại thành hai chương trình nhỏ tổ chức ở hai địa bàn khác nhau với cùng một thời gian, cùng một điều kiện áp dụng cho khách hàng… nhưng doanh nghiệp tiến hành hai thủ tục đăng ký khuyến mại khác nhau thì sẽ không vi phạm Luật cạnh tranh vì không thỏa mãn điều kiện vi phạm là trong cùng một chương trình khuyến mại”.
Quy định về địa bàn khác nhau: quy định này là không hợp lý bởi lẽ mỗi vùng, miền, khu vực địa lý khác nhau có điều kiện kinh tế, mức sống khác nhau. Từ đó, việc áp dụng các chương trình khuyến mại khác nhau trong nhiều trường hợp đó lại là giải pháp hữu hiệu nhằm kích cầu, đồng thời phát huy tối đa chương trình khuyến mại. Căn cứ vào điều kiện kinh tế, mức sống của dân cư tại các vùng miền khác nhau, doanh nghiệp đưa ra các chương trình khuyến mại phù hợp nhất đảm bảo đồng thời lợi ích của khách hàng tham gia chương trình và đảm bảo tiết kiệm chi phí cho các chương trình khuyến mại. Do đó, tùy từng trường hợp doanh nghiệp có toàn quyền định đoạt về việc phân phối và mức độ phân phối cho khách hàng nên không thể quy định đó là bất chính.
     2.Thực tiễn thực hiện pháp luật về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
 “Sau 5 năm thực hiện các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh, Cục Quản lí cạnh tranh đã tiến hành điều tra 61 vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh (01 vụ trong năm 2006, 05 vụ trong năm 2007, 13 vụ trong năm 2008, 14 vụ trong năm 2009 và 28 vụ trong năm 2010). Trong đó có 46/63 vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh khởi xướng điều tra và 15/61 vụ việc điều tra dựa trên căn cứ đơn khiếu nại từ các doanh nghiệp,cụ thể như sau:
- 28 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- 17 vụ việc liên quan đến hành vi bán hàng đa cấp bất chính;
- 06 vụ việc liên quan đến hành vi dèm pha nói xấu doanh nghiệp khác;
- 05 vụ việc liên quan đến hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- 04 vụ việc liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- 01 vụ việc liên quan đến hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Bên cạnh các vụ việc được xử lý thông qua tố tụng cạnh tranh, Cục còn tiếp nhận, xem xét và cho ý kiến hướng dẫn, tư vấn về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thông qua các thủ tục hành chính thông thường. Cục cũng tiến hành tham vấn tiền tố tụng đối với 62 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm các vụ việc Cục khởi xướng tham vấn và các vụ việc phát sinh từ đơn khiếu nại của các doanh nghiệp”.
Qua số liệu thực tế thực hiện pháp luật cạnh tranh nói chung và hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong khuyến mại nói riêng cho thấy pháp luật Cạnh tranh đã phần nào giải quyết được yêu cầu đặt ra của pháp luật và thực tiễn. Thực tế các vụ việc về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong khuyến mại xuất hiện rất ít chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ vi phạm luật cạnh tranh trong suốt 5 năm thực hiện, thi hành Luật Cạnh tranh.
Thông qua số liệu trên một mặt cho thấy, các chủ thể tiến hành khuyến mại đã có ý thức thực hiện đúng quy định của pháp luật nói chung và Luật Cạnh tranh nói riêng trong quá trình xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc tiến hành chương trình khuyến mại có sự vi phạm pháp luật cạnh tranh nhưng chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Trên cơ sở tổng hợp các vụ việc vi phạm, ta có thể thấy mức độ ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đối với các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực:
Lĩnh vực
Phân bón
Ngân hàng
Viễn thông
Xâm phạm bí mật
50
25
1
Ép buộc trong kinh doanh
17
5
0
Rèm pha doanh nghiệp khác
8
12
0
Gây dối hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác
8
12
1
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
8
5
0
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
17
35
21
Phân biệt đối xử của hiệp hội
33
45
2
Bán hàng đa cấp bất chính
0
10
0
Nguồn: Cục quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương 2010: “ Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế, tr.220, 269, 393
Qua số liệu thống kê trên, ta thấy mức độ ảnh hưởng của hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh đối với các doanh nghiệp chiếm tỉ lệ khá cao, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, tiếp đó là phân bón và viễn thông. Như vậy, hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh có mức độ ảnh hưởng rất cao tới hoạt động của các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành nghề kinh doanh, đồng thời ảnh hưởng tới quyền lợi người tiêu dùng và không ai khác trong một giới hạn nhất định nếu bị phát hiện thì uy tín, danh tiếng của chủ thể thực hiện khuyến mại cũng bị suy giảm.
Điển hình nhất trong hành vi vi phạm của các chủ thể trong việc thực hiện hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh phải kể tới các chủ thể thông qua ví dụ:
*Ví dụ về: Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng
             Vi phạm của Công ty điện tử LG được thực hiện cụ thể: “ Ngày 13/03/2006 tại khách sạn New World diễn ra sự kiện bốc thăm trúng thưởng. Giải thưởng trong chương trình này gồm: xe ô tô Toyota Innova trị giá gần 30.000 USD (giải nhất), xe tải Hyundai 1,25 tấn (giải nhì), xe máy Honda Dylan (giải ba) với tổng giá trị hơn 2 tỷ đồng diễn ra tại nhiều tỉnh thành từ miền Trung trở vào.
Chương trình khuyến mại chia làm ba thùng bốc thăm, tuy nhiên trong ba thùng phiếu đang được rút thăm không có lá phiếu từ 200 trở lên trong khi khách hàng chủ yếu sở hữu lá phiếu từ 200 trở lên. Ngoài ra, trong chương trình này còn xuất hiện hiện tượng bất thường đó là: một công ty tham gia có đến 79 phiếu trên tổng số 168 phiếu hợp lệ.
            Theo quy định của chương trình khuyến mại này, để có được một phiếu thì phải mua 100 bộ máy lạnh LG, 300 bộ thì được 4 phiếu. Điều đó có nghĩa công ty kia phải mua đến hơn 5.900 bộ máy lạnh mới có được 79 phiếu. Trước sự thắc mắc của khách hàng, LG trả lời là: công ty này đã mua đúng số lượng máy (hơn 5.900 bộ). Và người mua có thể đặt cọc 8% trị giá đơn hàng thì được tính là đã mua và được phát phiếu. Chương trình khuyến mại của công ty LG đã gian dối về giải thưởng, lợi dụng lợi ích của khách hàng để tiêu thụ hàng hóa”.
            Hành vi trên của công ty điện tử LG đã vi phạm khoản 1, Điều 46, Luật Cạnh tranh 2004. Công ty LG đã gian dối trong việc trao thưởng, cụ thể: trong thùng bốc thăm giải thưởng không tồn lại những lá phiếu của khách hàng. Hành vi này được coi là một hình thức cạnh tranh không lành mạnh nhằm lợi dụng lợi ích, lòng tin của khách hàng để tiến hành xúc tiến thương mại, thu lợi nhuận lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các đối thủ cạnh tranh, môi trường kinh doanh và chính những người tiêu dùng tham gia chương trình khuyến mại.
*Ví dụ về: Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình
“Ngày 18/6/2009, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) gửi công văn khẩn tới Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) và Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông tố cáo hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh của Công ty TNHH một thành viên Thông tin di động (MobiFone).
 Công văn nêu rõ: trong thời gian qua tại một số tỉnh như: Đồng Tháp, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ, An Giang, Cà Mau, Kiên Giang… xuất hiện các áp phích in màu, quảng cáo giá cước dịch vụ mới của Công ty Thông tin di động VMS (Mobifone).
Viettel phát hiện một số phương thức khuyến mại của MobiFone nhằm lôi kéo khách hàng của Viettel Telecom chuyển sang sử dụng dịch vụ của Mobifone. Tại Hải Dương, MobiFone thực hiện bán hàng lưu động trên địa bàn xã, thôn với chương trình “Đổi sim mạng khác lấy sim MobiFone có 230.000 đồng trong tài khoản”. Chương trình này cho phép khách hàng có thẻ SIM của mạng di động khác còn tài khoản dưới 15.000 đồng và còn ngày sử dụng, có thể đổi lấy miễn phí một thẻ SIM MobiZone của MobiFone đã có sẵn 50.000 đồng trong tài khoản. Trong vòng 12 tháng, MobiFone sẽ tặng cho khách hàng mỗi tháng 15.000 đồng.
Viettel Telecom cho rằng việc MobiFone khuyến mại qua hình thức tặng thẻ SIM MobiZone cho khách hàng nhưng lại kèm theo điều kiện trao đổi là khách hàng chuyển thẻ SIM của doanh nghiệp viễn thông khác đồng nghĩa với việc khách hàng chỉ được hưởng khuyến mại của MobiFone khi từ bỏ việc sử dụng dịch vụ viễn thông của doanh nghiệp khác để chuyển sang sử dụng dịch vụ của hãng. Hành vi này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường viễn thông và vi phạm Luật Cạnh tranh.
Đại diện MobiFone đã thừa nhận là có một số chi nhánh của Mobifone đã triển khai chương trình đổi sim theo hình thức khuyến mại từ ngày 1/6/2009 đến ngày 10/6/2009. Tuy nhiên, Mobifone đã chính thức dừng triển khai chương trình khuyến mại này từ ngày 11/6/2009, được quy định tại văn bản số 2360/VMS-KH-BH ngày 11/6/2009 của Công ty VMS.
Ví dụ trên cho thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Mobifone trên thị trường viễn thông, chính hành vi này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích của các nhà kinh doanh viễn thông khác, mặt khác cũng ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng của khách hàng.
Hành vi vi phạm trên, Mobifone đã vi phạm khoản 4, Điều 46, Luật Cạnh tranh 2004: “ Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình”.
     3.Nguyên nhân
Thực trạng trên diễn ra là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do hệ thống pháp luật nước ta quy định không đầy đủ, không đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa có những hướng dẫn chi tiết về hoạt động khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh mà mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh tại Điều 46, Luật Cạnh tranh 2006, từ đó dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau. Trong một số trường hợp, nhiều chủ thể đã lợi dụng kẽ hở này để thực hiện hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh như: đối với quy định tại khoản 3, Điều 46, Luật Cạnh tranh: chủ thể thực hiện khuyến mại thay vì đăng kí một chương trình khuyến mại thì nay để áp dụng nhiều mức khuyến mại khác nhau trên mỗi địa bàn hoạt động, chủ thể sẽ tiến hành đăng kí nhiều chương trình khuyến mại. Tương ứng với một địa bàn hoạt động là một chương trình khuyến mại.
Thứ hai, nguồn lực thực thi pháp luật cạnh tranh ở nước ta còn rất thấp. Theo quy định của Điều 52 - Luật cạnh tranh Việt Nam, điều tra viên phải là những người có thời gian công tác thực tế ít nhất là 5 năm thuộc một trong các lĩnh vực luật, kinh tế và tài chính. “ Trong khi thực tế các cán bộ, nhân viên của Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay đến hơn 80% là những cán bộ mới ra trường hoặc có ít hơn 5 năm kinh nghiệm. Vì vậy, căn cứ các tiêu chuẩn nói trên, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Công Thương mới chỉ bổ nhiệm gần 20 điều tra viên. Trong khi đó, môi trường cạnh tranh ngày càng gắt gao mang tính sống còn với doanh nghiệp, tâm lý chạy theo lợi nhuận, lợi dụng sự thiếu vắng một khung pháp lý hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động kinh tế, cũng như khe hở của các quy định pháp luật hiện hành, v.v. đã làm xuất hiện trên thị trường nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, lợi dụng vị thế độc quyền gây khó khăn, làm tổn hại đến nền kinh tế”.
Thứ ba, do nhận thức, sự thiếu  hiểu biết của chủ thể tiến hành hoạt động khuyến mại và của người tiêu dùng. Nhiều trường hợp doanh nghiệp tiến hành khuyến mại cũng không biết việc khuyến mại của mình là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh đó, người tiêu dùng thì thờ ơ trước hành vi vi phạm của doanh nghiệp, với quan niệm hành  vi đó không gây ảnh hưởng nghiêm trọng nên lặng im cho qua. Nhưng thực tế hành vi khuyến mại đó không chỉ gây thiệt hại về lợi ích cho chính khách hàng đó mà còn ảnh hưởng tới nhiều người tiêu dùng khác và cùng với đó là nhiều doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh cũng bị ảnh hưởng làm cho môi trường cạnh tranh trở nên thiếu lành mạnh.
Thứ tư, mức xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh trong hoạt động khuyến mại còn thấp, chưa đủ răn đe, nhiều chủ thể biết hành vi của mình là vi phạm nhưng vẫn thực hiện hành vi đó do việc thu được lợi nhuận cao hơn so với việc nộp phạt.
     4.Giải pháp hoàn thiện pháp luật
-Hành vi khuyến mại khác nhau cho các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại không mang bản chất của một hành vi cạnh tranh không lành mạnh do đó cần đưa quy định này về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ra khỏi Luật cạnh tranh.
-Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các chính sách liên quan đến cạnh tranh để doanh nghiệp, người tiêu dùng kiểm soát được hành vi của mình tạo điều kiện xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh.
-Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp luật cạnh tranh cho đội ngũ cán bộ, điều tra viên góp phần làm tốt hơn công tác điều tra, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm.
C – KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích thực tiễn thực hiện pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh ta thấy tình hình cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong hoạt động khuyến mại hiện nay còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp đã bỏ qua pháp luật, bất chấp vi phạm pháp luật để cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Vì vậy, pháp luật cần có những quy đinh cụ thể, có sức răn đe hơn để hạn chế hành vi cạnh tranh không lành mạnh góp phần xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn.

1 nhận xét: