Thứ Tư, 17 tháng 8, 2016

CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ

NỘI DUNG

Những quy định về bảo đảm đầu tư theo Luật Đầu tư hiện hành được các nhà đầu tư đánh giá về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam tại thời điểm ban hành Luật Đầu tư. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo đảm đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế về bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã thỏa thuận trong thời gian qua. Các biện pháp đầu tư đã có nhiều biện pháp bảo đảm cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư nước ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc); Bổ sung nguyên tắc không hồi tố về điều kiện đầu tư trong trường hợp pháp luật, chính sách thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến điều kiện đầu tư đã được quy định tại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; Ngoài ra, để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như cam kết của Việt Nam theo các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Luật ĐT 2014 bổ sung về giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư thông qua trọng tài chỉ được thực hiện trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài theo hợp đồng giữa các bên tranh chấp hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.[1]

I. CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ

Nói đến quyền sở hữu tài sản điều này đã quy định trong Hiến Pháp 2013, Hiến pháp ghi nhận vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân một cách tương xứng với sự đóng góp to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời khẳng định rõ ràng và nhất quán về tài sản hợp pháp để đầu tư, sản xuất kinh doanh được nhà nước bảo vệ và không bị quốc hóa, cụ thể tại Khoản 3 Điều 51 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”.
Trong pháp luật đầu tư, bảo đảm quyền sở hữu tài sản là một biện pháp đảm bảo đầu tư mà nhà nước thực hiện đối với nhà đầu tư quy định tại Điều 9 Luật Đầu tư 2014: “1.  Tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. 2.Trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Biện pháp bảo đảm đầu tư này được áp dụng đối với tất cả các nhà đầu tư có hoạt động đầu tư theo pháp luật đầu tư của Việt Nam, không phân biệt mức độ bảo hiểm nhiều hay ít, dự trên bất kì một tiêu chí nào. Hơn nữa, biện pháp này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi các nhà đầu tư bắt đầu triển khai dự án đầu tư mà không cần phải thông qua thêm bất cứ thủ tục hành chính nào.
Đây là cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư nước ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) phù hợp với điều kiện và lộ trình quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Khoản 1 Điều 7). Quy định này nhằm cụ thể hóa cam kết của Việt Nam về đối xử tối huệ quốc theo các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. 
 Luật Đầu tư 2014 việc đảm bảo hoạt động đầu tư kinh doanh quy định cụ thể tại Điều 10 Luật Đầu tư 2014, Nhà nước không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu như ưu tiên sử dụng hàng hóa, xuất khẩu đạt tỷ lệ nhất định, tỷ lệ nội địa hóa trong nước, …. Xóa bỏ quy định trên cũng là một những nguyên tắc quan trọng trong thương mại quốc tế khi mà Việt Nam là thành viên hay muốn là thành viên.
Nguyên tắc này góp phần không nhỏ trong việc bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Bằng sự đảm bảo này, nhà đầu tư nước ngoài có thể tự do trong việc dịch chuyển tài sản hợp pháp của mình mà không gặp những trở ngại tại quốc gia tiếp nhận đầu tư. Được thỏa mãn nhu cầu tất yếu khi họ tiến hành hoạt động đầu tư: đó là chuyển số lợi nhuận mà họ thu được về đất nước của họ.
Theo luật Việt Nam, khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư không phải nộp thuế. Quy định này nhằm tránh việc đánh thuế hai lần, vì lợi nhuận mà nhà đầu tư được chuyển là lợi nhuận sau thuế tức là nhà đầu tư đã phải nộp, thuế thu nhập trước khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Trách nhiệm nộp thuế trong trường hợp này không thuộc về nhà đầu tư mà thuộc về doanh nghiệp nơi nhà đầu tư tham gia đầu tư vốn. Nhà đầu tư nước ngoài có thể được đảm bảo một môi trường đầu tư minh bạch, thông thoáng, thuận lợi cho việc đầu tư, được đảm bảo về quyền sở hữu tài sản hợp pháp.
Các biện pháp đảm bảo đầu tư nói chung và đảm bảo việc nhà đầu tư nước ngoài được chuyển tiền ra nước ngoài đã góp phần không nhỏ trong việc làm minh bạch hóa chính sách, hoàn thiện môi trường đầu tư. Cụ thể hơn, khi tài sản, lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được từ hoạt động đầu tư được đảm bảo quyền sở hữu, được tự do dịch chuyển về nước sở tại, dẫn tới nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc đầu tư vào quốc gia đó. Nhờ vậy, tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia tiếp nhận đầu tư phát triển.
Hòan thiện hệ thống pháp luật: Trong trường hợp Việt Nam, việc quy định nguyên tắc này giúp đảm bảo tính hợp lý của pháp luật Việt Nam trong quy định về việc chống đánh thuế hai lần đối với lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có những điểm hạn chế nhất định, việc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tự do chuyển tiền ra khỏi biên giới, lãnh thổ quốc gia, nếu không có sự kiểm soát, nguyên tắc này có thể bị lạm dụng, để chuyển những khoản tiền không hợp pháp ra nước ngoài, vượt qua sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước dưới hình thức lợi nhuận hoạt động đầu tư. Điều đó xấu đòi hỏi cần có cơ chế quản lý chặt chẽ, xác minh rõ ràng các khoản tiền mà nhà đầu tư chuyển ra nước ngoài.
Thủ tướng Chính phủ quyết định việc bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và những dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng khác. Điều 12 Luật Đầu tư 2014
Mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 34/2015/QĐ-TTg ban hành Danh mục các chương trình, dự án ưu tiên được xem xét cấp bảo lãnh Chính phủ[2] Đây là biện pháp đảm bảo đầu tư mới được quy định trong luật Đầu tư 2014.
Xuất phát từ thực tiễn pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật có tuổi thọ thấp, chính sách quy định luôn luôn thay đổi trong khi đó nhu cầu của nhà Đầu tư muốn kinh doanh thực hiện dự án lâu dài. Mỗi dự án đầu tư có thể kéo dài 10-30 năm trong khi đó tuổi thọ các văn bản pháp luật và chính sách ưu đãi của PLVN chỉ 5-10 năm chính vì vậy biện pháp này nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư không bị biến động khi có sự thay đổi pháp luật.
Việc bổ sung quy định này nhằm bảo đảm để Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết trong WTO về việc không hồi tố các điều kiện đầu tư  (phạm vi hoạt động, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài). Biện pháp này quy định cụ thể tại Điều 13 LĐT 2014:
“1. Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư cao hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư đang được hưởng thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của văn bản pháp luật mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án.
2. Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án.
3. Quy định tại khoản 2 Điều này không áp dụng trong trường hợp thay đổi quy định của văn bản pháp luật vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, bảo vệ môi trường.
4. Trường hợp nhà đầu tư không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều này thì được xem xét giải quyết bằng một hoặc một số biện pháp sau đây:
a) Khấu trừ thiệt hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế;
b) Điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư;
c) Hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại.
5. Đối với biện pháp bảo đảm đầu tư quy định tại khoản 4 Điều này, nhà đầu tư phải có yêu cầu bằng văn bản trong thời hạn 03 năm kể từ ngày văn bản pháp luật mới có hiệu lực thi hành”
Khi có tranh chấp xảy ra nhà nước đảm bảo các bên có quyền giải quyết tranh chấp, dự trên sự thỏa thuận của các bên. Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thương lượng, hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án. Như vậy, các nhà đầu tư được đảm bảo việc tranh chấp của mình được giải quyết.
Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc giữa nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này
Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: Tòa án Việt Nam; Trọng tài Việt Nam;Trọng tài nước ngoài;Trọng tài quốc tế;Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập.
Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác

II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ NÀY VỚI HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ

Xuất phát từ ý nghĩa về tầm quan trọng của các biện pháp đảm bảo đầu tư mà các biện pháp này có sức ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động đầu tư cả về số lượng và chất lượng của nước ta.
Trước hết, các biện pháp bảo đảm đầu tư góp phần không nhỏ tạo ra môi trường đầu tư bình ổn. Môi trường đầu tư bình ổn sẽ là “lời mời gọi đầy hấp dẫn” với các nhà đầu tư từ đó hiệu quả thu hút đầu tư sẽ tăng cao. Xu hướng quốc tế hóa về đầu tư đã tạo ra những luồng đầu tư không chỉ giới hạn trong khuôn khổ biên giới một quốc gia, các nhà đầu tư đã thực hiện những dự án đầu tư ở nhiều quốc gia khác nhau. Do có sự ổn định trong các quy định về các biện pháp bảo đảm đầu tư mà hầu như ở quốc gia nào các nhà đầu tư cũng có thể yên tâm đầu tư trong môi trường đầu tư không có sự xáo trộn, ít nhất là các vấn đề cơ bản liên quan đến những lợi ích trực tiếp của các nhà đầu tư.
Mặt khác, sự thay đổi một cách linh hoạt và đúng đắn của các biện pháp bảo đảm đầu tư sẽ đồng nghĩa với việc cải tạo môi trường đầu tư một cách tích cực hơn. Điều này còn cho thấy nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống các biện pháp đảm bảo đâu tư đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc tạo lập niềm tin đối với môi trường đầu tư ở Việt Nam của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hơn nữa, thực hiện hiệu quả các biện pháp đầu tư sẽ góp phần tăng thu hút đầu tư một cách hiệu quả cả về số lượng và chất lượng. Nhìn nhận các biện pháp bảo đảm đầu tư trong tương quan so sánh với môi trường đầu tư có thể nhận thấy rằng, hệ thống các biện pháp bảo đảm đầu tư tốt chính là một trong những yếu tố giúp nhà nước có môi trường đầu tư tốt được đánh giá thông qua khả năng thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ và ngày càng tăng.
Đồng thời, khi các biện pháp đảm bảo đầu tư được ban hành đã thể hiện thái độ đầy thiện chí cũng như những nỗ lực của nhà nước trong việc mời gọi các nhà đầu tư đầu tư vào và tìm kiếm lợi nhuận. Những quy định ưu đãi này sẽ tạo được niềm tin cũng như cho các nhà đầu tư cảm giác an toàn khi đầu tư vì có nhiều khía cạnh đầu tư sẽ được “đảm bảo một cách chắc chắn” thông qua các biện pháp bảo đảm đầu tư khiến cho các hoạt động đầu tư càng trở nên thông thoáng và phát triển hơn và như thế chắc chắn hiệu quả đầu tư sẽ được nâng cao.
Đặc trưng của hoạt động đầu tư kinh doanh là khả năng xảy ra rủi ro rất lớn, chính vì vậy khi tiến hành đầu tư nếu có một môi trường đầu tư thuận lợi với những bảo đảm chắc chắn từ phía nước tiếp nhận đầu tư sẽ được các nhà đầu tư hưởng ứng nhiệt tình. Khi thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo đảm này sẽ tạo ra những hiệu ứng ảnh hưởng rất tốt đến hiệu quả thu hút đầu tư.
Như vậy, các biện pháp đảm bảo đầu tư có một tầm quan trọng đến hiệu quả của hoạt động thu hút đầu tư. Vì vậy, Việt Nam cũng như mỗi quốc gia trên thế giới cần chú trọng đến việc ban hành cũng như hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này để hoạt động đầu tư đạt hiệu quả cao nhất.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Luật đầu tư 2014
2.      Giáo trình Luật đầu tư, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, 2008;
3.      Pháp luật bảo đảm đầu tư ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn –M Khoá luận tốt nghiệp, Vũ Lê Quỳnh Ngân; 2009;
4.      Ý nghĩa của các biện pháp bảo đảm đầu tư – Hanam.gov
5.      Các website:



[1] Tờ trình về dự thảo Luật Đầu tư 2014
[2] : 1. Dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng, khai thác, chế biến khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đáp ứng các tiêu chí: Là dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư công và thuộc lĩnh vực, địa bàn được Nhà nước khuyến khích đầu tư theo Luật đầu tư.
2. Chương trình, dự án trong lĩnh vực năng lượng, khai thác và chế biến khoáng sản thuộc nhóm A theo Luật Đầu tư công gồm Đầu tư hạ tầng điện lực, đầu tư xây dựng mới nhà máy điện, phân phối điện, truyền tải điện; đầu tư nhà máy lọc dầu.
3- Chương trình, dự án thuộc lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích đầu tư gồm Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông (đường cao tốc) có tổng vốn đầu tư từ 10.000 tỷ đồng trở lên; Phát triển vận tải công cộng (Đầu tư mua máy bay theo chương trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
4- Các dự án đặc biệt do Chính phủ quyết định.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét