NỘI DUNG
Những
quy định về bảo đảm đầu tư theo Luật Đầu tư hiện hành được các nhà đầu tư đánh
giá về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như các cam kết quốc tế về đầu
tư của Việt Nam tại thời điểm ban hành Luật Đầu tư. Tuy nhiên, để tiếp tục hoàn
thiện chính sách bảo đảm đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế về bảo hộ đầu tư mà
Việt Nam đã thỏa thuận trong thời gian qua. Các biện pháp đầu tư đã có nhiều biện
pháp bảo đảm cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các
nhà đầu tư nước ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc); Bổ sung nguyên tắc
không hồi tố về điều kiện đầu tư trong trường hợp pháp luật, chính sách thay đổi
làm ảnh hưởng bất lợi đến điều kiện đầu tư đã được quy định tại Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư; Ngoài ra, để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như cam kết của
Việt Nam theo các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Luật ĐT 2014 bổ sung
về giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư. Theo đó, việc giải quyết tranh
chấp giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư thông qua trọng tài chỉ được thực hiện
trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài theo hợp đồng giữa các bên tranh chấp
hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.[1]
I. CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ
Nói
đến quyền sở hữu tài sản điều này đã quy định trong Hiến Pháp 2013, Hiến pháp
ghi nhận vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân một cách tương xứng với sự đóng
góp to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời khẳng định rõ ràng
và nhất quán về tài sản hợp pháp để đầu tư, sản xuất kinh doanh được nhà nước bảo
vệ và không bị quốc hóa, cụ thể tại Khoản 3 Điều 51 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để
doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh;
phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ
và không bị quốc hữu hóa”.
Trong pháp luật đầu tư, bảo đảm
quyền sở hữu tài sản là một biện pháp đảm bảo đầu tư mà nhà nước thực hiện đối
với nhà đầu tư quy định tại Điều 9 Luật Đầu tư 2014: “1. Tài sản hợp pháp của nhà đầu
tư không bị quốc hữu hóa hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. 2.Trường hợp
Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi
ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được
thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài
sản và quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Biện
pháp bảo đảm đầu tư này được áp dụng đối với tất cả các nhà đầu
tư có hoạt động đầu tư theo pháp luật đầu tư của Việt Nam, không phân
biệt mức độ bảo hiểm nhiều hay ít, dự trên bất kì một tiêu chí
nào. Hơn nữa, biện pháp này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi các nhà
đầu tư bắt đầu triển khai dự án đầu tư mà không cần phải thông qua
thêm bất cứ thủ tục hành chính nào.
Đây
là cam kết của nhà nước trong việc đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư nước
ngoài (nguyên tắc đối xử tối huệ quốc) phù hợp với điều kiện và lộ trình quy định
tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Khoản 1 Điều 7). Quy định
này nhằm cụ thể hóa cam kết của Việt Nam về đối xử tối huệ quốc theo các Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
Luật Đầu tư 2014 việc đảm bảo hoạt động đầu tư
kinh doanh quy định cụ thể tại Điều 10 Luật Đầu tư 2014, Nhà nước không bắt buộc
nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu như ưu tiên sử dụng hàng hóa, xuất khẩu đạt
tỷ lệ nhất định, tỷ lệ nội địa hóa trong nước, …. Xóa bỏ quy định trên cũng là
một những nguyên tắc quan trọng trong thương mại quốc tế khi mà Việt Nam là
thành viên hay muốn là thành viên.
Nguyên
tắc này góp phần không nhỏ trong việc bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của nhà đầu
tư nước ngoài đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Bằng sự đảm bảo
này, nhà đầu tư nước ngoài có thể tự do trong việc dịch chuyển tài sản hợp pháp
của mình mà không gặp những trở ngại tại quốc gia tiếp nhận đầu tư. Được thỏa
mãn nhu cầu tất yếu khi họ tiến hành hoạt động đầu tư: đó là chuyển số lợi nhuận
mà họ thu được về đất nước của họ.
Theo
luật Việt Nam, khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư không phải nộp
thuế. Quy định này nhằm tránh việc đánh thuế hai lần, vì lợi nhuận mà nhà đầu
tư được chuyển là lợi nhuận sau thuế tức là nhà đầu tư đã phải nộp, thuế thu nhập
trước khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Trách nhiệm nộp thuế trong trường hợp
này không thuộc về nhà đầu tư mà thuộc về doanh nghiệp nơi nhà đầu tư tham gia
đầu tư vốn. Nhà đầu tư nước ngoài có thể được đảm bảo một môi trường đầu tư
minh bạch, thông thoáng, thuận lợi cho việc đầu tư, được đảm bảo về quyền sở hữu
tài sản hợp pháp.
Các
biện pháp đảm bảo đầu tư nói chung và đảm bảo việc nhà đầu tư nước ngoài được
chuyển tiền ra nước ngoài đã góp phần không nhỏ trong việc làm minh bạch hóa
chính sách, hoàn thiện môi trường đầu tư. Cụ thể hơn, khi tài sản, lợi nhuận mà
nhà đầu tư thu được từ hoạt động đầu tư được đảm bảo quyền sở hữu, được tự do dịch
chuyển về nước sở tại, dẫn tới nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc đầu tư vào
quốc gia đó. Nhờ vậy, tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia tiếp nhận đầu tư
phát triển.
Hòan
thiện hệ thống pháp luật: Trong trường hợp Việt Nam, việc quy định nguyên tắc
này giúp đảm bảo tính hợp lý của pháp luật Việt Nam trong quy định về việc chống
đánh thuế hai lần đối với lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy
nhiên, nguyên tắc này cũng có những điểm hạn chế nhất định, việc tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tự do chuyển tiền ra khỏi biên giới,
lãnh thổ quốc gia, nếu không có sự kiểm soát, nguyên tắc này có thể bị lạm dụng,
để chuyển những khoản tiền không hợp pháp ra nước ngoài, vượt qua sự kiểm soát
của cơ quan quản lý nhà nước dưới hình thức lợi nhuận hoạt động đầu tư. Điều đó
xấu đòi hỏi cần có cơ chế quản lý chặt chẽ, xác minh rõ ràng các khoản tiền mà
nhà đầu tư chuyển ra nước ngoài.
Thủ
tướng Chính phủ quyết định việc bảo lãnh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện dự án
đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ và những dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng khác. Điều
12 Luật Đầu tư 2014
Mới
đây Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 34/2015/QĐ-TTg ban hành Danh mục
các chương trình, dự án ưu tiên được xem xét cấp bảo lãnh Chính phủ[2] Đây
là biện pháp đảm bảo đầu tư mới được quy định trong luật Đầu tư 2014.
Xuất
phát từ thực tiễn pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật có tuổi thọ thấp,
chính sách quy định luôn luôn thay đổi trong khi đó nhu cầu của nhà Đầu tư muốn
kinh doanh thực hiện dự án lâu dài. Mỗi dự án đầu tư có thể kéo dài 10-30 năm
trong khi đó tuổi thọ các văn bản pháp luật và chính sách ưu đãi của PLVN chỉ
5-10 năm chính vì vậy biện pháp này nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư không bị biến
động khi có sự thay đổi pháp luật.
Việc
bổ sung quy định này nhằm bảo đảm để Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết trong
WTO về việc không hồi tố các điều kiện đầu tư
(phạm vi hoạt động, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài). Biện pháp
này quy định cụ thể tại Điều 13 LĐT 2014:
“1.
Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư cao hơn
ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư đang được hưởng thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu
tư theo quy định của văn bản pháp luật mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của
dự án.
2.
Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn
ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp
dụng ưu đãi đầu tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của
dự án.
3.
Quy định tại khoản 2 Điều này không áp dụng trong trường hợp thay đổi quy định
của văn bản pháp luật vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, bảo vệ môi trường.
4.
Trường hợp nhà đầu tư không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định tại
khoản 3 Điều này thì được xem xét giải quyết bằng một hoặc một số biện pháp sau
đây:
a)
Khấu trừ thiệt hại thực tế của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế;
b)
Điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án đầu tư;
c)
Hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại.
5.
Đối với biện pháp bảo đảm đầu tư quy định tại khoản 4 Điều này, nhà đầu tư phải
có yêu cầu bằng văn bản trong thời hạn 03 năm kể từ ngày văn bản pháp luật mới
có hiệu lực thi hành”
Khi
có tranh chấp xảy ra nhà nước đảm bảo các bên có quyền giải quyết tranh chấp, dự
trên sự thỏa thuận của các bên. Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp
không thương lượng, hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài
hoặc Tòa án. Như vậy, các nhà đầu tư được đảm bảo việc tranh chấp của mình được
giải quyết.
Tranh
chấp giữa các nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
hoặc giữa nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên
lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt
Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này
Tranh
chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài
hoặc tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này được giải quyết
thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: Tòa án Việt Nam; Trọng tài
Việt Nam;Trọng tài nước ngoài;Trọng tài quốc tế;Trọng tài do các bên tranh chấp
thỏa thuận thành lập.
Tranh
chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến
hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng
tài Việt Nam hoặc Tòa án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo hợp đồng
hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có
quy định khác
II. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ
NÀY VỚI HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ
Xuất
phát từ ý nghĩa về tầm quan trọng của các biện pháp đảm bảo đầu tư mà các biện
pháp này có sức ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động đầu tư cả về số lượng
và chất lượng của nước ta.
Trước hết, các biện pháp bảo đảm đầu
tư góp phần không nhỏ tạo ra môi trường đầu tư bình ổn. Môi trường đầu tư bình ổn
sẽ là “lời mời gọi đầy hấp dẫn” với các nhà đầu tư từ đó hiệu quả thu hút đầu
tư sẽ tăng cao. Xu hướng quốc tế hóa về đầu tư đã tạo ra những luồng đầu tư
không chỉ giới hạn trong khuôn khổ biên giới một quốc gia, các nhà đầu tư đã thực
hiện những dự án đầu tư ở nhiều quốc gia khác nhau. Do có sự ổn định trong các
quy định về các biện pháp bảo đảm đầu tư mà hầu như ở quốc gia nào các nhà đầu
tư cũng có thể yên tâm đầu tư trong môi trường đầu tư không có sự xáo trộn, ít
nhất là các vấn đề cơ bản liên quan đến những lợi ích trực tiếp của các nhà đầu
tư.
Mặt khác, sự thay đổi một cách linh hoạt và
đúng đắn của các biện pháp bảo đảm đầu tư sẽ đồng nghĩa với việc cải tạo môi
trường đầu tư một cách tích cực hơn. Điều này còn cho thấy nỗ lực của Nhà nước
Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống các biện pháp đảm bảo đâu tư đã ảnh hưởng
không nhỏ tới việc tạo lập niềm tin đối với môi trường đầu tư ở Việt Nam của
các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Hơn
nữa, thực hiện hiệu quả các biện pháp đầu tư sẽ góp phần tăng thu hút đầu tư một
cách hiệu quả cả về số lượng và chất lượng. Nhìn nhận các biện pháp bảo đảm đầu
tư trong tương quan so sánh với môi trường đầu tư có thể nhận thấy rằng, hệ thống
các biện pháp bảo đảm đầu tư tốt chính là một trong những yếu tố giúp nhà nước
có môi trường đầu tư tốt được đánh giá thông qua khả năng thu hút vốn đầu tư mạnh
mẽ và ngày càng tăng.
Đồng
thời, khi các biện pháp đảm bảo đầu tư được ban hành đã thể hiện thái độ đầy
thiện chí cũng như những nỗ lực của nhà nước trong việc mời gọi các nhà đầu tư
đầu tư vào và tìm kiếm lợi nhuận. Những quy định ưu đãi này sẽ tạo được niềm
tin cũng như cho các nhà đầu tư cảm giác an toàn khi đầu tư vì có nhiều khía cạnh
đầu tư sẽ được “đảm bảo một cách chắc chắn” thông qua các biện pháp bảo đảm đầu
tư khiến cho các hoạt động đầu tư càng trở nên thông thoáng và phát triển hơn
và như thế chắc chắn hiệu quả đầu tư sẽ được nâng cao.
Đặc
trưng của hoạt động đầu tư kinh doanh là khả năng xảy ra rủi ro rất lớn, chính
vì vậy khi tiến hành đầu tư nếu có một môi trường đầu tư thuận lợi với những bảo
đảm chắc chắn từ phía nước tiếp nhận đầu tư sẽ được các nhà đầu tư hưởng ứng
nhiệt tình. Khi thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo đảm này sẽ tạo ra những hiệu
ứng ảnh hưởng rất tốt đến hiệu quả thu hút đầu tư.
Như
vậy, các biện pháp đảm bảo đầu tư có một tầm quan trọng đến hiệu quả của hoạt động
thu hút đầu tư. Vì vậy, Việt Nam cũng như mỗi quốc gia trên thế giới cần chú trọng
đến việc ban hành cũng như hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này để hoạt
động đầu tư đạt hiệu quả cao nhất.
DANH MỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Luật đầu tư 2014
2.
Giáo trình Luật đầu tư, Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB CAND, 2008;
3.
Pháp luật bảo đảm đầu tư ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn –M Khoá luận tốt nghiệp, Vũ Lê Quỳnh Ngân; 2009;
4.
Ý nghĩa của các biện pháp bảo đảm đầu tư – Hanam.gov
5.
Các website:
[1] Tờ trình về dự thảo Luật Đầu tư 2014
[2] : 1. Dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án trong lĩnh vực năng lượng,
khai thác, chế biến khoáng sản hoặc sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuất khẩu
phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đáp ứng các
tiêu chí: Là dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư
theo Luật Đầu tư công và thuộc lĩnh vực, địa bàn được Nhà nước khuyến khích đầu
tư theo Luật đầu tư.
2. Chương trình, dự án trong lĩnh vực năng lượng, khai thác và chế
biến khoáng sản thuộc nhóm A theo Luật Đầu tư công gồm Đầu tư hạ tầng điện lực,
đầu tư xây dựng mới nhà máy điện, phân phối điện, truyền tải điện; đầu tư nhà
máy lọc dầu.
3- Chương trình, dự án thuộc lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích đầu
tư gồm Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông (đường cao tốc) có tổng vốn đầu
tư từ 10.000 tỷ đồng trở lên; Phát triển vận tải công cộng (Đầu tư mua máy bay
theo chương trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
4- Các dự án đặc biệt do Chính phủ quyết định.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét