A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử
tháng 1 năm 1946 đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử phát triển thể chế
chính trị ở Việt Nam, đó là thời kỳ nước ta có một Quốc hội với đầy đủ tư cách
pháp lý đại diện cho nhân dân cả nước đảm đương nhiệm vụ đối nội đối ngoại,
chống thù trong giặc ngoài. Đó là Quốc hội của độc lập dân tộc, của thống nhất
đất nước và của đại đoàn kết toàn dân. Từ đó, Quốc hội có vị trí, tính chất và
chức năng đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước. Để hiểu rõ hơn về Quốc hội,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong thời kỳ đổi mới, em đã chọn đề tài:
“Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội theo Pháp luật hiện hành”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
Khái quát về sự ra đời và phát triển
của Quốc hội Việt Nam
Để bảo vệ nền độc lập, tự
do cho dân tộc, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để củng cố và tăng
cường chính quyền là phải thực hiện quyền dân chủ cho quần chúng, phải xúc tiến
việc bầu Quốc hội, quy định Hiến pháp. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch đã
ra Sắc lệnh mở cuộc Tổng
tuyển cử tự do trong cả nước để bầu Quốc hội. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, nhân dân
cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử tự do bầu ra Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là Quốc hội đầu tiên của nước ta – Quốc hội khóa
I.
Tính tới thời điểm hiện nay (năm
2012), Quốc hội nước ta đã trải qua 13 khóa làm việc. Mỗi khóa Quốc hội có
nhiệm vụ gắn liền với điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội của đất nước.
II.
Vị trí, tính chất và chức năng của
Quốc hội theo Pháp luật hiện hành.
1.
Vị trí, tính chất và chức năng của
Quốc hội qua các bản Hiến pháp.
Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, Quốc
hội luôn chiếm vị trí và chức năng đặc biệt quan trọng được quy định cụ thể
trong các bản Hiến pháp và luật tổ chức Quốc hội.
Theo Hiến pháp năm 1946, vị trí tính chất
của Quốc hội được quy định tại điều 22: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, với chức năng là “…giải quyết
những vấn dề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách,
chuẩn y các hiệp ước mà chính phủ đã kí với nước ngoài” (điều 23).
Hiến pháp 1959 khẳng định, quốc hội
là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước ta (điều 43) và là cơ quan duy
nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (điều 44).
Đến Hiến pháp năm 1980, vai trò của
Quốc hội được tăng cường và phát triển hơn nữa và được cụ thể hóa tại điều 82.
Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội đảm
nhiệm những chức năng quan trọng: nó là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và
lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục
tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân đồng thời
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Trên tinh thần của Hiến pháp năm
1980, vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội theo Hiến pháp hiện hành
(Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001) về căn bản không gì thay đổi so với Hiến
pháp năm 1980 và được cụ thể hóa tại điều 83 luật này.
2.
Vị
trí, tính chất và chức năng của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
Những quy định về vị trí, tính chất
chức năng của Quốc hội được coi trọng hàng đầu, được ghi nhận tại điều đầu tiên
trong chương Quốc hội của Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 (Điều 83) và
ngay tại Điều 1 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001: “Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt
động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước.”
a.
Vị trí, tính chất của Quốc hội.
Thứ nhất, Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Trước hết, vị trí tính chất này của Quốc hội xuất phát từ
trật tự hình thành Quốc hội. Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất ở nước ta do
nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra theo bốn nguyên tắc (phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín). Các nguyên tắc này thống nhất với nhau, bảo đảm cho
việc bầu cử Quốc hội khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri
khi lựa chọn đại biểu. Tiếp theo là xuất phát từ cơ cấu của Quốc hội. Cơ cấu
của Quốc hội là một khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, các giới, các địa
phương trên các lĩnh vực. Quốc hội là cơ quan Nhà nước tập trung trí tuệ toàn
dân, bao gồm các đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
Quốc hội được cấu thành bởi những đại biểu ưu tú đại diện cho các tầng lớp công
nhân, nông dân, trí thức, những người lao động khác, các dân tộc, tôn giáo,
thành phần xã hội trên toàn quốc. Cụ thể, trong số 500 đại biểu quốc hội
trúng cử khóa 13, cơ cấu như sau: Đại biểu là người dân tộc thiểu số 78 người
(chiếm 15,60%); đại biểu nữ 122 người (chiếm 24,40%); đại biểu ngoài Đảng 12
người (chiếm 8,40%); đại biểu dưới 40 tuổi là 62 người (chiếm 12,40%); đại biểu
tái cử là 167 người (chiếm 33,40%); đại biểu tự ứng cử là 4 người (chiếm 0,8%).
Xuất phát từ những hoạt
động của Quốc hội , đặc biệt là hoạt động giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thể hiện
vai trò của Quốc hội là đại biểu cao nhất của nhân dân. Cuối cùng là xuất phát
từ lợi ích của cử tri trong cả nước. Quyết định của Quốc hội là quyết định quan
trọng liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Những quyết định của
Quốc hội phải đảm bảo lợi ích của nhân dân cả nước, phải được bàn bạc một cách
công khai dân chủ và biểu quyết theo đa số. Đại biểu Quốc hội phải chịu sự giám
sát của cử tri cả nước, quyết định mọi vấn đề phải sát và hợp với quần chúng
nhân dân và làm việc theo nhiệm kì. Nhiệm kỳ của Quốc hội là năm năm, đây là
khoảng thời gian phù hợp để nhân dân cả nước nhìn nhận lại sự tín nhiệm đối với
cơ quan đại biểu cao nhất của mình. Trong nhiệm kỳ hoạt động, đại biểu Quốc hội
nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân sẽ bị Quốc hội hoặc cử
tri bãi nhiệm miễn nhiệm. Do vậy, Quốc hội phải chịu trách nhiệm trước nhân dân
cả nước về mọi hoạt động và quyết định của mình
Thứ hai, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội mang chủ quyền nhà nước và chủ quyền nhân dân.
Theo Điều 2, Hiến pháp năm 1992, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
thống nhất quyền lực vào tay nhân dân và tập trung ở Quốc hội. Quốc hội là cơ
quan duy nhất nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân cả nước, biến ý chí của nhân
dân thành ý chí nhà nước thành các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đó là
những quy định mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với mọi tầng lớp
dân cư. Trong sự so sánh với Hội đồng nhân dân – cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương thì quyền lực nhà nước của Quốc hội là cao nhất vì Hội đồng nhân dân
chỉ là cơ quan đại diện cho nhân dân của một địa phương, do nhân dân địa phương
đó bầu ra và Quốc hội có quyền đình chỉ hay hủy bỏ những quyết định của hội
đồng nhân dân trái Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội có quyền lập pháp và lập
hiến. Để Quốc hội thực hiện tốt hơn quyền này, bên cạnh việc quy định Quốc hội
có nhiệm vụ quyền hạn là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa
đổi luật còn được bổ sung tại khoản 1 Điều 84 quyền quyết định chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh. Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng Nhà nước về
kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng. Quốc hội thành
lập ra các các cơ quan cao cấp trong bộ máy Nhà nước: Chủ tịch nước – nguyên
thủ Quốc gia, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao Quốc hội gắn với việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quan trọng
cấp cao của Nhà nước. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ
Trung ương đến địa phương đều do Quốc hội xem xét, lựa chọn, thể hiện cụ thể
trong Hiến pháp cũng như quy định trong luật tổ chức Nhà nước. Quốc hội có
quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
thủ tướng Chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trái với hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc. Cuối cùng, tính quyền lực cao
nhất của Quốc hội còn thể hiện ở việc giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của
Nhà nước, việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật và bảo đảm Hiến pháp, luật và
các quy định của các cơ quan nhà nước được thực hiện.
b.
Chức năng của quốc hội.
Với vị trí, tính chất như trên, Quốc
hội có ba chức năng của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Thứ nhất là chức năng lập hiến, lập pháp của Quốc hội. Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh. Đây là chức năng quan trọng của Nghị viện Quốc hội của các nước trong đó
có Việt Nam, được quy định tại Khoản 1 Điều 84 hiến pháp năm 1992 sửa đổi và
Khoản 1 Điều 2 luật tổ chức Quốc hội năm 2001 – là cơ sở pháp lí quan trọng tạo
tiền đề cho hoạt động lập pháp của Quốc hội được tiến hành theo chương trình
phù hợp, thống nhất nhằm khẳng định tính chủ động của Quốc hội. Trong bối cảnh
đất nước ta hiện nay, chức năng lập pháp lại càng được khẳng định. Nước ta đi
lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu đang trên con đường công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước, chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường với nhiều mặt trái của nó rất cần có luật điều tiết. Quốc hội phải xây
dựng được hệ thống Pháp luật tiên tiến, phù hợp với điều kiện thực tế của nước
ta để khắc phục những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Chức năng này một
lần nữa khẳng định lại vị trí, vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nước vì
chỉ có Quốc hội có quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực
pháp lí cao như Hiến pháp và luật, đồng thời nó còn chi phối hai chức năng còn
lại. Hoạt động lập pháp của Quốc hội phát triển từ bước không có chương trình
đến việc Quốc hội đã định kỳ thông qua chương trình xây dựng luật và pháp lệnh.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội được triển khai trên diện rộng một cách đồng bộ
theo kế hoạch đã định trước. Chương trình lập pháp hằng năm được Quốc hội xây
dựng trên cơ sở yêu cầu và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, được sửa đổi bổ
sung một cách linh hoạt, kịp thời tùy thuộc vào các điều kiện khách quan và khả
năng chủ quan của Quốc hội. Mặt khác, việc Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban
hành quá nhiều pháp lệnh khi Quốc hội chưa có luật điều chỉnh đã làm ảnh hưởng
đến chức năng lập pháp của Quốc hội. Khi vấn đề đã được pháp lệnh điều chỉnh
thì Quốc hội sẽ không làm luật quy định vấn đề đó nữa.
Thứ hai là chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Chức năng này thể hiện vai trò của
Quốc hội về vấn đề đối nội, đối ngoại. Trong
lĩnh vực kinh tế, Quốc hội quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán
ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân
sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế. Trong lĩnh vực tổ
chức nhà nước, Quốc hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng,
củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Tại các kì
họp của mình cũng như những quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật do mình
ban hành (Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ
chức tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và ủy ban nhân dân), Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Bên cạnh đó Quốc hội còn bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức
danh quan trọng Nhà nước (Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội,
các phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, các phó Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) ; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính
phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách
thành viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ
các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Những cơ quan khác không trực tiếp
Quốc hội thành lập nhưng thay vào đó, bằng các quy phạm pháp luật, Quốc hội quy
định những nguyên tắc tổ chức và hoạt động cho các cơ quan này. Quốc hội quyết
định việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc
biệt. Quốc hội có quyền bài bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội. Quốc hội quy định hàm, cấp trong các lĩnh vực vũ trang nhân dân,
hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy
chương và danh hiệu vinh dự nhà nước. Quốc hội còn quy định về chính sách dân
tộc và chính sách tôn giáo Nhà nước. Trong việc đối ngoại, Quốc hội quyết định
những chính sách cơ bản về đối ngoại. Quốc hội phê chuẩn hay bãi bỏ điều ước
Quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc
tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thay mặt
nhân dân cả nước, Quốc hội quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất
nước (chiến tranh hay hòa bình), có những quy định về tình trạng khẩn cấp, các
biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia.
Thứ ba là chức năng giám sát. Chức năng này được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc tập quyền
xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo sự thống nhất quyền lực nhà nước và tính tối cao
của Quốc hội. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội,
chức năng này đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 và
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003. Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, bao gồm hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Quốc hội chỉ giám sát tối cao đối với các cơ quan nhà
nước ở trung ương còn ở địa phương Quốc hội thực hiện việc phân cấp cho Hội
đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan nhà nước ở địa
phương như Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Điều
này rất phù hợp với nguyên tắc hiến định “có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư
pháp” và điều kiện thực tế, làm cho Quốc hội thực hiện tốt hơn chức năng giám
sát tối cao của mình. Cùng là đảm bảo việc tuân thủ thi hành Hiến pháp và Pháp
luật nhưng giám sát của Quốc hội hoàn toàn khác so với Viện kiểm sát. Đối tượng
giám sát của Quốc hội là những quan chức cấp cao như Chủ tịch nước, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
khi đối tượng giám sát của Viện kiểm sát nhân dân là các hàm từ bộ trưởng trở
xuống và tập trung vào các quan chức Nhà nước dưới Bộ trưởng. Quốc hội giám sát
văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động của các đối tượng giám sát trong việc
thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Quốc hội thực hiện hoạt động
giám sát thông qua các hoạt động xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tình hình thi
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; xem xét văn bản quy phạm pháp
luật của chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; đặc biệt là xem xét việc trả lời chất
vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chức năng giám sát của Quốc hội nhằm làm cho
những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất.
Quốc hội giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, bảo đảm cho những cơ quan này
hoàn thành nhiệm vụ quyền hạn được quy định, làm cho bộ máy nhà nước họat động
đều đặn, nhịp nhàng, không chồng chéo, chống các biểu hiện tham nhũng, quan liêu
và hách dịch, cửa quyền.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, Quốc hội giữ vai trò tiên
quyết tới sự phát triển của đất nước. Với vị trí, tính chất là cơ quan đại biểu
cao nhất của cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng vơí những chức năng rất quan
trọng, trong những thời gian qua Quốc
hội đã làm việc hiệu quả hoàn thành tốt những nhiệm vụ chức năng của mình, luôn
được sự tin tưởng cũng như ủng hộ của nhân dân. Chính vì vậy Quốc hội xứng đáng
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét