Lời mở đầu
Trước cách mạng tháng
Tám năm 1945, nươc ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến với chính thể quân
chủ chuyên chế nên không có Hiến pháp. Tuy nhiên, vào những năm đầu thế kỷ XX,
do ảnh hưởng của các tư tưởng bên ngoài nên trong giới tri thức Việt Nam đã xuất
hiện tư tưởng lập hiến. Nhưng lịch sử lập hiến
Việt Nam bắt đầu từ năm 1946 khi bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua. Sự ra đời của Ban dự thảo Hiến pháp và bản
Hiến pháp năm 1946 có vai trò rất đặc biệt trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Để hiểu rõ hơn, nhóm B1 chúng em xin chọn đề tài: “Ban dự thảo Hiến pháp và sự
ra đời của Hiến pháp năm 1946” để hoàn thành bài tập nhóm tháng một.
Phần 1. Nội dung.
I. Sự
ra đời của Hiến pháp 1946 – bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam.
1.
Tư
tưởng lập hiến ở nước ta trước năm 1945.
Trước
cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, có
bộ máy thống trị trực tiếp của thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn theo
chính thể quân chủ chuyên chế, bởi vậy nước ta là một nước thuộc địa không có
hiến pháp. Tuy nhiên, tư tưởng lập hiến đã xuất
hiện trước đó khoảng gần một thế kỷ, sau khi bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
năm 1776, Hiến pháp nước Mỹ năm 1787 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nước
Pháp năm 1789 ra đời, đặc biệt vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi
những luồng gió mới của chính sách Duy tân của Minh Trị Thiên hoàng ở Nhật Bản
và Cách mạng Trung Hoa năm 1911 thổi vào Việt Nam. Tư tưởng lập hiến đã xuất hiện
trong giới trí thức Việt Nam, trong đó có hai luồng tư tưởng chủ yếu. đó là:
Đối với bọn tư sản phản động
mà đại diện là Phạm Quỳnh và Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng Lập hiến
1923) thì nảy sinh tư tưởng muốn thực dân Pháp ban bố cho Việt Nam (dân An
Nam) một bản Hiến pháp với một số quyền tự do, dân chủ, thừa nhận sự thống trị của thực
dân Pháp, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và thiết lập chế độ dân chủ ở
Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Như vậy,
khuynh hướng này đã thể hiện rõ sự thỏa hiệp, sự dung hoà lợi ích giữa triều
đình phong kiến, thực dân Pháp và với dân ta bằng một bản Hiến pháp.
Đặc biệt
là tư tưởng lập hiến của những nhà cách mạng yêu nước mà đại diện là
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc với chủ trương đấu
tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng
một bản Hiến pháp của NN độc lập đó. Không có độc lập dân tộc thì không thể có
một bản Hiến pháp thực sự dân chủ. Tư tưởng lập hiến của Nguyễn Ái Quốc được thể
hiện rất rõ trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam mà Nguời đã gởi cho Hội
nghị Vessailles năm 1919. Bản yêu sách có 8 điều, đáng chú ý là điều thứ 7 đã
thể hiện yêu cầu lập hiến, lập pháp cho nhân dân Viện Nam: Bảy xin Hiến pháp
ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam và lịch sử lập hiến nước ta đã chứng minh chủ trương này là hoàn toàn đúng
đắn. Năm 1926, Người gửi tới Hội Vạn Quốc yêu sách và nhấn mạnh “Nếu được độc
lập ngay thì áp đặt một nền Hiến pháp về phương diện chính trị
và xã hội theo những lý tưởng dân quyền”. Những tư tưởng về độc lập dân tộc
và xây dựng Hiến pháp đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh lãnh đạo thực
hiện trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong quá trình xây dựng Hiến
pháp 1946.
2.
Hoàn
cảnh ra đời bản hiến pháp năm 1946.
Nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa vừa mới ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách. Quân đội các
nước Đồng minh (Anh, Trung Hoa dân quốc), dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật
Bản lũ lượt kéo vào nước ta cùng bọn tay sai phản động. Trong khi đó chính quyền
cách mạng vừa mới thành lập , chưa được củng cố; lực lượng vũ trang còn non yếu.
Nền kinh tế nước ta vốn lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề cùng với
thiên tai, nạn đói đe dọa, nền tài chính rối loạn càng làm cho đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn. Có thể nói trong hơn một năm đầu sau Cách mạng tháng
Tám, nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, có giải quyết được
thì thành quả cách mạng mới được giữ vững và phát huy. Xây dựng chính quyền
cách mạng, phát huy thuận lợi, khắc phục những khó khăn ,bảo vệ chính quyền…là
những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta.
Ngày 2
tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
"Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngay sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, Hồ Chủ tịch
đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Một trong những nhiệm vụ cấp bách
đó là xây dựng Hiến pháp. Người viết: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước
ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng
ta phải có một Hiến pháp dân chủ". Ngày 20-9-1945, Chính phủ Lâm thời ra Sắc
lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11-1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và
bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng
hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời
của nhân dân ta về độc lập và tự do.Ngày 2-3-1946, Quốc hội đã nghe Chính phủ
trình bày bản dự thảo Hiến pháp. Trên cơ sở đó, Quốc hội (Khoá I, Kỳ họp thứ nhất)
đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người, đại biểu của nhiều tổ chức, đảng
phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết
các ý kiến đóng góp của nhân dân và xây dựng bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc
hội xem xét và thông qua.Ngày 28-10-1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kỳ họp thứ
hai của Quốc hội khoá I đã khai mạc. Ngày 9-11-1946, sau hơn mười ngày làm việc
khẩn trương, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống.Vào thời điểm Quốc hội thông
qua Hiến pháp, thực dân Pháp phản bội các hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta,
chúng không ngừng khiêu khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lập lại
ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Trước tình hình đó, trong phiên họp ngày
9-11-1946, sau khi tuyên bố Hiến pháp đã trở thành chính thức, Quốc hội ra Nghị
quyết giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố và
thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo Nghị quyết của Quốc hội
trong điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính phủ phải dựa vào những
nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Ngày
19-12-1946, mười ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng chiến
toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được chính
thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều
kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến
pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
3.
Nội
dung của Hiến pháp năm 1946.
a. Về hình thức:
Hiến pháp 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều.
§ Lời
nói đầu: xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là “Bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết Quốc gia trên nền tảng dân chủ”.
§ Xác
định các nguyên tắc xây dựng Hiến pháp gồm:
o Một là:
Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo
o Hai là:
Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ
o Ba là:
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
b.
Về nội dung : Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản, quan trọng
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội làm cơ sở, nền tảng cho toàn bộ hoạt động
của nhà nước và xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học – công
nghệ, chính sách đối ngoại của nhà nước, quyền cơ bản của công dân, tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước).Toàn bộ 7 chương của Hiến
pháp 1946 đều được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản nói trên.
Nguyên
tắc đoàn kết toàn dân được thể hiện trong
Chương I (gồm 03 điều quy định về chính thể).
Nguyên tắc đảm bảo quyền
tự do dân chủ được thể hiện ở Chương II (gồm 18
điều quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân).
Nguyên tắc thực hiện
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
được cụ thể trong các Chương III, IV,V,VI quy định về Nghị viện nhân dân, về
Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính, về cơ quan tư pháp.
4.
Ý
nghĩa.
Thứ nhất, sự ra
đời của Hiến pháp 1946 là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Nhà nước
và Pháp luật Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở khu vực Đông Nam Á, một
Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập với hình thức chính thể cộng hòa. Đó
là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ. Nó có tác dụng cổ
vũ cho phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc ở các quốc gia ở khu
vực Đông Nam Á.
Thứ hai, Hiến
pháp 1946 phản ánh tinh thần độc lập tự do và tính dân tộc dân chủ sâu sắc
thông qua việc ghi nhận và thể hiện nguyên tắc ”đoàn kết, toàn dân”
trong Hiến pháp. Nguyên tắc đoàn kết toàn dân vừa có ý nghĩa ghi nhận thành quả
đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc của nhân dân ta, vừa có ý nghĩa là
cơ sở, là điều kiện để xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân. Đoàn kết toàn dân
còn là điều kiện để xây dựng chính quyền vững mạnh, nhất là trong hoàn cảnh an
ninh và hoà bình quốc gia đang bị xâm phạm. Như vậy, nguyên tắc đoàn kết toàn
dân phản ánh tinh thần độc lập tự do và tính dân tộc dân chủ sâu sắc trong Hiến
pháp 1946.
Thứ ba, thông
qua việc ghi nhận và thể hiện nguyên tắc ”đảm bảo các quyền tự do dân chủ”,
Hiến pháp 1946 đã chứng tỏ tính chất dân chủ thực sự của nó.
Hiến pháp 1946 là bản Hiến
pháp dân chủ rộng rãi được thể hiện ở chỗ chủ thể được hưởng quyền dân chủ là
đông đảo các tầng lớp nhân dân và nội dung của các quyền dân chủ biểu hiện ở
nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hoá- xã hội, … Các
quyền tự dân chủ của công dân được Hiến pháp 1946 qui định mang tính tiến bộ,
tính nhân văn sâu sắc; lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, quyền bình đẳng trước
pháp luật của mọi công dân được ghi nhận (Điều 7) và được đảm bảo thực hiện
bằng giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp.
Thứ tư, Hiến
pháp 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của một
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt với việc sáng tạo ra một hình thức chính thể cộng
hoà dân chủ và chế định Chủ tịch nước rất độc đáo. Tính độc đáo này được thể hiện
ở hai khía cạnh sau: Để có thể lãnh đạo và điều hành đất nước trong tình thế ”thù
trong giặc ngoài” thì cần phải có một Chính phủ đủ mạnh, có thực quyền.
Chính thể dân chủ cộng hoà trong Hiến pháp 1946 là rất mới mẻ và tiến bộ so với
lịch sử lập hiến của nhân loại. Nó vừa mang những đặc điểm của chính thể cộng
hoà tổng thống (Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu cơ quan hành pháp, có
thực quyền), nó vừa mang những đặc điểm của chính thể cộng hoà đại nghị (Nghị
viện có quyền bất tín nhiệm Chính Phủ).
Thứ năm, về kỹ
thuật lập pháp: Hiến pháp 1946 là một bản Hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc
và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là một bản Hiến pháp mẫu mực cả trên phương
diện nội dung và hình thức. Điều này góp phần giải thích vì sao nhiều nguyên tắc
của Hiến pháp 1946, nhất là những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Bản thân Hiến pháp 1946 như Bác Hồ đã nói là vẫn
chưa hoàn toàn hoàn thiện tức là nó vẫn còn tồn tại những thiếu sót và hạn chế
nhất định như không có quy định về điều kiện trở thành công dân Việt Nam, không
có điều khoản nào công nhận lực lượng chính trị lúc đó là Mặt trận Việt Minh (Đảng
Cộng sản nau này).
II. Ban dự
thảo Hiến pháp năm 1946.
1. Ban dự thảo Hiến pháp thành lập ngày 20/9/1945.
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra Sắc lệnh số 14-SL về cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, với Điều 6 ghi rõ: “Để
dự thảo một bản Hiến pháp đệ trình Quốc hội, một Ủy ban khởi thảo Hiến pháp 7
người sẽ thành lập”. Ngày 20/9/1945,
Chủ tịch ra Sắc lệnh số 34-SL, thành lập Ủy
ban Dự thảo Hiến pháp gồm có: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (Bảo Đại), Đặng Thai Mai,
Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiền, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).
Ủy ban này phải làm việc ngay lập tức và hàng kỳ thông
báo công việc tiến hành đến đâu cho nhân dân biết và thu thập ý
kiến của nhân dân về chính thể mới chế độ mới.
Ủy ban dự thảo
hiến pháp mỗi tuần họp một lần ở phòng hóa học trường đại học Đông Dương cũ. Ủy ban dự thảo hiến pháp phác thảo Hiến pháp
theo tinh thần dân chủ mới: Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nam nữ bình
quyền, dân tộc bình đẳng, phổ thông đầu phiếu, Quốc hội chỉ gồm một viện, Chính
phủ do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra và là người đại diện nhà nước
Việt Nam trước thế giới, tuyên bố về chiến tranh và hòa
bình, chủ trì các phiên họp của hội đồng Chính phủ, khi cần thiết có quyền ân
xá, giảm tội…
2. Ban dự thảo Hiến pháp thành lập ngày 02/03/1946.
Ngày 2/3/1946 , trên cơ
sở Ban dự thảo Hiến pháp của Chính phủ, Quốc hội (khóa I, kì
họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo
Hiến pháp gồm 11 đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau: Trần Duy
Hưng, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Huỳnh Bá Nhung,
Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương,
Phạm Gia Đỗ, Nguyễn Thị Thục Viên và do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.Nhiệm vụ của Ban là:
Tiếp tục nghiên cứu Dự thảo Hiến pháp để phiên họp sau đem trình trước Ban Thường trực trình
Quốc hội. Căn cứ vào bản Dự án của Chính phủ và đối chiếu với bản Dự thảo của Ủy
ban kiến quốc, tham khảo kinh nghiệm soạn thảo Hiến pháp của các nước ở châu Á, châu Âu; tổng kết các ý kiến
đóng góp của nhân dân và xây dựng Bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem
xét và thông qua.
Trong phiên họp ngày 29/10/1946, Ban dự thảo Hiến pháp của
Quốc hội được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm, đại biểu trung lập, đại
biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào dân tộc thiểu số để tham gia tu bổ thêm bản Dự
án.
Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, từ ngày 28/10 đến
ngày 9/11/1946, lần đầu tiên Quốc hội Việt Nam thực hiện quyền lập hiến. Từ
ngày 2/11/1946, Quốc hội bắt đầu thảo luận về Dự án Hiến pháp. Các đại biểu của
các nhóm đảng trong Quốc hội đã lần lượt
phát biểu ý kiến. Các vị đại biểu của các nhóm đều
đã nêu ra những ưu điểm của Dự án
Hiến pháp, đóng góp thêm một số khía cạnh cụ thể và đi đến thống nhất nội dung
của Dự án. Sau nhiều buổi thảo luận
và tranh luận sôi nổi, sửa đổi, bổ sung cho từng điều cụ thể,
ngày 9/11/1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua
Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Hiến pháp 1946 với sự nhất trí của
240/242 đại biểu dự họp.
Phần 2. Kết luận.
Như
vậy, mặc dù do hoàn cảnh chiến tranh nên Hiến pháp năm 1946 không được chính thức
công bố nhưng bản Hiến pháp vẫn luôn được Đảng, Nhà nước cùng các nhà lãnh đạo
áp dụng để thực hiện công cuộc bảo vệ, phát triển đất nước. Sự ra đời của Hiến
pháp năm 1946 đã đánh dấu một bước tiến lớn trong cách mạng Việt Nam, mở đầu lịch
sử lập hiến Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo
trình “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”
2. Sách
“ 60 năm Quốc hội Việt Nam”, NXB chính trị quốc gia,
Văn phòng quốc hội, trang 36, 37.
3. http://isl.gov.vn/content/632_Tu_tuong_lap_hien_o_Viet_Nam_truoc_Cach_mang_thang_Tam_nam_1945.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét