Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2016

BÀI TẬP NHÓM DÂN SỰ


Đề bài số 04:


Anh A là người đang học nghề tại cơ sở sửa chữa xe máy của ông B. Trong giấy phép thì cơ sở này không được quyền dạy nghề nhưng thực tế, vì ông B là một thợ có tay nghề cứng và rất giỏi nên ông vẫn thường xuyên nhận dạy nghề cho những người có nhu cầu như anh A. Trong 1 lần, anh A được giao sửa 1 chiếc xe SH của anh C. Anh A đã sửa xong và có điện thoại hẹn anh C 4 giờ chiều ngày 20/6/2013 đến lấy. Quá giờ hẹn, không thấy anh C đến lấy nên anh A đợi thêm 2 tiếng nữa. Đến 6 giờ tối cũng không thấy anh C đến, sợ để xe ở xưởng sữa chữa không yên tâm vì xe có giá trị lớn nên anh A mang xe anh C về nhà. Trên đường về, qua đoạn ngã tư, do D lái xe vượt đèn đỏ đâm vào anh A đang đi xe SH của anh C làm xe bị hư hỏng nặng, sửa chữa mất khoảng 15 triệu. Sáng sớm hôm sau, anh C đến lấy xe thì thấy xe hỏng, bực mình quá anh yêu cầu ông B bồi thường. Ông B thì giải thích rằng ông không cho phép anh A đi xe về và kể cả việc mang xe anh C về của anh A ông cũng không biết nên ông không có trách nhiệm. Hơn nữa, lúc đó cũng không còn là giờ làm việc, học việc nữa nên ông không có trách nhiệm. Về phía anh A, anh bảo anh không có lỗi, do D vi phạm luật giao thông nên đương nhiên D phải có trách nhiệm bồi thường cho anh C. Vậy, hỏi nhóm:
1.       Trường hợp bồi thường này là bồi thường ngoài hợp đồng hay bồi thường do vi phạm hợp đồng sửa chữa xe máy mà anh C giao kết với cơ sở của ông B?
2.       Để bảo vệ quyền lợi cho mình, anh C cần phải làm những gì?
3.       Nếu nhóm là cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhóm áp dụng quy định pháp luật nào để giải quyết và giải quyết như thế nào?
4.       Có cần sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh quy định pháp luật nào để giải quyết tình huống này hợp lý hơn không?



Lời mở đầu

Hiện nay, trên thực tế, có nhiều trường hợp, tình huống xảy ra trong đời sống chúng ta đều liên quan đến những trách nhiệm bồi thường trong luật dân sự, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường cũng như các điều luật các liên quan đã phần nào giải quyết, đáp ứng được các tình huống thực tế song vẫn còn nhiều bất cập. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm B1 chúng em xin chọn đề số 4: đề tình huống để hoàn thành bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Dân sự Việt Nam (tập 2).

Phần 1. Nội dung.

Sau đây, nhóm chúng em xin giải quyết bốn yêu cầu của tình huống:
1.     Trường hợp bồi thường này là bồi thường ngoài hợp đồng.
Trong trường hợp này, để xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay bồi thường do hành vi vi phạm hợp đồng sửa chữa xe máy cần phân tích hành vi của các chủ thể. Xem hành vi nào là vi phạm hợp đồng, hành vi nào vi phạm pháp luật, hành vi nào gây thiệt hại thực tế, từ đó mới có căn cứ để xác định tính chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này.
Thứ nhất, về phía ông B, cơ sở sửa chữa xe máy của ông không có giấy phép dạy nghề vì vậy trên thực tế anh A theo học và làm việc ở cơ sở của ông không phải việc học nghề theo quy định của pháp luật, tức là pháp luật không thừa nhận anh A là người học nghề của cơ sở này. Anh A không có bằng cấp về sửa chữa xe máy. Khoản 2, 3 điều 522 BLDS năm 2005 quy định về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ, theo đó bên cung ứng dịch vụ “không được giao cho người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ”; “bảo quản và phải giao lại cho bên thuê dịch vụ tài liệu và phương tiện được giao sau khi hoàn thành công việc”. Trong vụ việc này, khi ông B giao cho anh A sửa xe SH của anh C là vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng dịch vụ còn việc bảo quản và trả lại tài sản phát sinh từ việc chậm trễ của anh C và hành vi của anh A nên việc xe bị tai nạn và hư hỏng không có lỗi của ông B. Theo khoản 2 điều 521BLDS năm 2005: “Trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên, hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng của ông B không gây thiệt hại thực tế do vậy không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, về hành vi của anh A tự ý mang xe anh C về nhà. Trong vụ việc có nêu rõ, việc anh A mang xe về nhà là do đã quá thời hạn nhận xe theo thỏa thuận hơn 2 tiếng mà anh C chưa đến, hành vi mang xe của anh C về nhà mình hoàn toàn do không yên tâm vì khối tài sản quá lớn. Theo quy định điều 594 BLDS 2005 có thể khẳng định trong trường hợp này anh A thực hiện công việc không có ủy quyền, việc tự ý mang xe của anh C về không vi phạm quy định của pháp luật.
Thứ ba, trong thời gian anh A thực hiện công việc không có ủy quyền, D lái xe vượt đèn đỏ đâm vào anh A đang đi xe SH của anh C làm xe bị hỏng nặng sửa chữa mất khoảng 15 triệu đồng. Điều 597 BLDS năm 2005 có quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thực hiện công việc không có ủy quyền gây ra, tuy nhiên việc thiệt hại không do lỗi của anh A nên không hình thành trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này.
Thứ tư, về hành vi của anh D.
-                     Anh D đã gây thiệt hại cho xe của anh C, thiệt hại này đã xảy ra trên thực tế  gây tổn thất cho tài sản là chiếc xe máy SH thuộc sở hữu của anh C và xác định được số tiền để sửa chữa chiếc xe máy bị đâm là khoảng 15 triệu đồng.
-                     Anh D đã thực hiện một hành vi trái pháp luật là vượt đèn đỏ, vi phạm luật giao thông.
-                     Hành vi trái pháp luật của anh D là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới thiệt hại cho chiếc xe SH của anh C và thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vượt đèn đỏ của anh D. Nếu D không vượt đèn đỏ thì chiếc xe SH của anh C mà anh A đi sẽ không bị hỏng. nói cách khác, việc hỏng xe SH của anh C nằm ngoài ý chí của anh A.
-                     Vấn đề lỗi, ở đây anh D là người có lỗi. Có thể anh D đã thấy trước được hành vi vượt đèn đỏ của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được do đó D vẫn thực hiện hành vi vượt đèn đỏ.
Từ những căn cứ trên, trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng pháp sinh giữa anh D và anh C, hai người này không có quan hệ hợp đồng nhưng D đã gây thiệt hại cho tài sản thuộc sở hữu của anh C là chiếc xe máy SH khi anh A lái chiếc xe máy này về nhà vì sợ để lại xưởng sửa chữa không yên tâm do anh C không tới lấy xe đúng thời gian đã hẹn với anh A.
2.     Để bảo vệ quyền lợi của mình, anh C cần làm những gì?
 C giao cho cơ sở sữa chữa xe máy của ông B sửa chữa chiếc xe máy SH của mình và B đã nhận sửa chữa. Căn cứ vào điều 518 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.” và điều 519 Bộ luật dân sự năm 2005: “ Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội” thì đây là một hợp đồng dịch vụ và C là bên thuê dịch vụ; B là bên cung ứng dịch vụ.
Trong giấy phép kinh doanh thì cơ sở sữa chữa xe máy của ông B không được quyền dạy nghề nhưng thực tế thì ông B thường xuyên nhận dạy nghề cho những người có nhu cầu như anh A và anh A đã được ông B giao cho sửa chiếc xe SH của C. Như vậy, có thể thấy rằng, theo quy định của pháp luật thì A không phải là người thuộc bên cung ứng dịch vụ. Căn cứ vào khoản 2 điều 522 Bộ luật Dân sự  năm 2005 về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ: “Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ” thì  việc ông B giao cho A sửa chữa chiếc xe của C mà chưa được sự đồng ý của C là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng với C.
Do D vượt đèn đỏ, đâm vào chiếc xe của C làm xe bị hư hỏng nặng, sửa chữa hết khoảng 15 triệu. Theo quy định tại điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
 “1.Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.   
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.” 
Và theo hướng dẫn tại nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm: Thứ nhất, có hành vi trái pháp luật - những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Chỉ những quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích đó mới là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp đều là hành vi trái pháp luật bởi trên thực tế cũng như dưới giác độ pháp lý, có những hành vi xâm phạm đén quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhưng được pháp luật cho phép thực hiện hoặc bắt buộc phải thực hiện. (Điều 262, khoản 1 Điều 614 BLDS 2005)
          Thứ hai, phải có thiệt hại xảy ra. Đây là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cũng là một điểm khác biệt so với trách nhiệm theo hợp đồng. Trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận việc vi phạm khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà không cần chứng minh có thiệt hại xảy ra hay không. Trái lại,trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên bị thiệt hại bắt buộc phải chứng minh thiệt hại xảy ra. Nếu không có thiệt hại thì mặc dù có hành vi vi phạm pháp luật cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường mặc dù có thể phát sinh trách nhiệm pháp lý khác.
          Thứ ba, người có hành vi vi phạm pháp luật phải có lỗi. Lỗi bao gồm lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng nhưng vì hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó luôn bị suy đoán là có lỗi nên vẫn phải bồi thường thiệt hại. Và lỗi không phải là yếu tố quan trọng  để quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
          Thứ tư, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật, tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể rất khó xác định mối quan hệ  nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại, đặc biệt là đối với trường hợp gây ô nhiễm môi trường.
Trong trường hợp này, do D vượt đèn đỏ đâm vào A nên lỗi hoàn toàn là của D. Hành vi trái pháp luật của D là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại xảy ra cho C: chiếc xe hư hỏng nặng phải sửa chữa mất 15 triệu đồng. Dựa vào các căn cứ nên trên, D phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C. Để đảm bảo quyền lợi cho mình, C có quyền yêu cầu D phải bồi thường thiệt hại cho mình.
3.     Cách giải quyết của nhóm.
tt Để bảo vệ quyền lợi cho C thì trước hết phải làm rõ mối quan hệ giữa các chủ thể. Từ đó có thể thấy được quyền và lợi ích hợp pháp của anh C, đồng thời đưa ra cách thức để anh C bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ nhất là mối quan hệ giữa anh C và ông B. Anh C giao cho cơ sở sữa chữa xe máy của ông B sửa chữa chiếc xe máy SH của mình và B đã nhận sửa chữa. Căn cứ vào điều 518 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.” và điều 519 Bộ luật dân sự năm 2005: “ Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội” thì đây là một hợp đồng dịch vụ. Như vậy, C và B là hai bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng, trong đó C là bên thuê dịch vụ; B là bên cung ứng dịch vụ.
Thứ hai là mối quan hệ giữa anh A và ông B. Trong giấy phép kinh doanh thì cơ sở sữa chữa xe máy của ông B không được quyền dạy nghề nhưng thực tế thì ông B thường xuyên nhận dạy nghề cho những người có nhu cầu như anh A và anh A đã được ông B giao cho sửa chiếc xe SH của C. Hơn nữa, đề bài cũng không đề cập tới hợp đồng lao động giữa A và B nên anh A không được xác định là người làm công của C (vì nếu có hợp đồng lao động thì việc B dạy nghề cho A coi như là đang đào tạo A để làm việc cho mình). Như vậy, có thể thấy rằng, theo quy định của pháp luật thì A không phải là người thuộc bên cung ứng dịch vụ.
Căn cứ vào khoản 2 điều 522 Bộ luật Dân sự  năm 2005 về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ: “Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ” thì  việc ông B giao cho A sửa chữa chiếc xe của C mà chưa được sự đồng ý của C là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng với C.
Thứ ba là mối quan hệ giữa anh C và anh A. Theo dữ kiện của để bài:  Anh A đã sửa xong và hẹn anh C 4 giờ chiều ngày 20/6/2013 đến lấy. Quá giờ hẹn không thấy anh C đến lấy nên anh A đợi thêm 2 tiếng nữa. Đến 6 giờ tối cũng không thấy anh C đến, sợ để xe ở xưởng sửa chữa không yên tâm vì xe có giá trị lớn nên A mang xe của anh C về nhà. Căn cứ vào điều 594 BLDS 2005: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối” thì A được xác định là người thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong trường hợp A chưa đủ điều kiện để điều khiển xe SH của anh C thì A cũng có lỗi, vi phạm nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền (khoản 1 điều 595: “Người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng điều kiện của mình”). A hoàn toàn có khả năng lựa chọn hành vi, thay vì mang xe về nhà thì A có thể báo cho chủ cơ sở sửa chữa xe là ông B để hỏi ý kiến, chiếc xe SH của C sẽ trông giữ và bảo quản ngay tại cơ sở sửa chữa của ông B.
Thứ 4 là mối quan hệ giữa A và D, giữa D và C.
Do D lái xe vượt đèn đỏ đâm vào anh A đang đi chiếc xe SH của anh C làm xe bị hư hỏng nặng, sửa chữa hết khoảng 15 triệu. Anh A là người đang trực tiếp chiếm hữu và sử dụng chiếc xe SH và đã bị D đâm vào. Anh C là chủ sở hữu của chiếc xe SH.
 Theo quy định tại điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
 “1.Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường…”
Và theo hướng dẫn tại nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm:
Một là, có hành vi trái pháp luật - những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Chỉ những quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích đó mới là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp đều là hành vi trái pháp luật bởi trên thực tế cũng như dưới giác độ pháp lý, có những hành vi xâm phạm đén quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhưng được pháp luật cho phép thực hiện hoặc bắt buộc phải thực hiện. (Điều 262, khoản 1 Điều 614 BLDS 2005)
          Hai là, phải có thiệt hại xảy ra. Đây là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cũng là một điểm khác biệt so với trách nhiệm theo hợp đồng. Trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận việc vi phạm khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà không cần chứng minh có thiệt hại xảy ra hay không. Trái lại,trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên bị thiệt hại bắt buộc phải chứng minh thiệt hại xảy ra. Nếu không có thiệt hại thì mặc dù có hành vi vi phạm pháp luật cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường mặc dù có thể phát sinh trách nhiệm pháp lý khác.
          Ba là, người có hành vi vi phạm pháp luật phải có lỗi. Lỗi bao gồm lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng nhưng vì hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó luôn bị suy đoán là có lỗi nên vẫn phải bồi thường thiệt hại. Và lỗi không phải là yếu tố quan trọng  để quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
          Bốn là, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật, tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể rất khó xác định mối quan hệ  nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại, đặc biệt là đối với trường hợp gây ô nhiễm môi trường.
Trong trường hợp này, do D vượt đèn đỏ đâm vào A nên lỗi hoàn toàn là của D. Hành vi trái pháp luật của D là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại xảy ra cho C: chiếc xe hư hỏng nặng phải sửa chữa mất 15 triệu đồng. Dựa vào các căn cứ nên trên, D phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C.
Căn cứ vào khoản 2, khoản 5 phần 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“2.1. Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội.”; 5.1 a, “Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của người bị thiệt hại”
          Như vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, anh C sẽ đưa ra các giấy tờ chứng minh mình là chủ sở hữu chiếc xe SH mà D gây thiệt hại, yêu cầu anh D bồi thường thiệt hại cho mình, thỏa thuận với anh D về mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường. Trong trường hợp khả năng tài chính của anh D thấp, không đủ khả năng để bồi thường thiệt hại cho anh C, để đảm bảo quyền và lợi ích của mình một cách kịp thời và toàn bộ thì anh C có thể đến gặp ông B – bên cung ứng dịch vụ sửa chữa xe và anh A người trực tiếp điều khiển xe SH bị thiệt hại để thỏa thuận về việc yêu cầu ông B, anh A thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho trước sau đó anh D phải hoàn trả lại khoản tiền đó. Theo đó, anh C sẽ đưa ra những thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ cũng như nghĩa vụ của hai bên khi tham gia quan hệ hợp đông này làm lí do, căn cứ để yêu cầu ông B, anh A bồi thường thiệt hại cho anh. Anh C sẽ lập luận là anh C đã giao chiếc xe SH cho ông B yêu cầu sửa chữa thì ông B phải có nghĩa vụ giao lại chiếc xe ít nhất là chiếc xe ở tình trạng ban đầu; anh C thừa nhận lỗi không nhận xe đúng giờ hẹn (vì có những công việc khẩn cấp, bị tai nạn,…) nhưng không chấp nhận nhận lại phương tiện là chiếc xe SH đã bị hư hỏng và cũng không đồng ý cho anh A (không phải người của bên cung ứng dịch vụ) sửa chữa cho chiếc xe SH của mình, yêu cầu ông B phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì anh C làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết. Anh C phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị thiệt hại do không có phương tiện đi lại. Anh C cần cung cấp cho tòa về các thông tin liên quan đến hợp đồng dịch vụ giữa anh C và ông B. Tòa án sẽ dựa vào các căn cứ các bên cung cấp (việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại) và xem xét sự việc thực tế, về mức độ phù hợp của hành vi anh A mang xe SH về nhà, từ đó có thể yêu cầu ông Bvà anh A bồi thường thiệt hại cho anh C; anh D có nghĩa vụ hoàn trả cho ông B và anh A.


4.                 Cần sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật để giải quyết tình huống này hợp lý hơn.
  Với những quy định của pháp luật hiện hành, TNBTTHNHĐ nói chung và BTTH do người làm công, người học nghề gây ra còn khá nhiều bất cập dẫn đến những tồn tại vướng mắc trong thực tiễn áp dụng như:
Thứ nhất, về các hạn chế của pháp luật xung quanh trách nhiệm bồi thường của người làm công.
Những quy định của pháp luật chưa đầy đủ, hơn nữa lại không có bất kì một văn bản hướng dẫn nào về vấn đề BTTH do người làm công, người học nghề gây ra. Pháp luật dân sự hiện hành chưa đưa ra khái niệm người làm công, người học nghề cũng như TNBTTh do người làm công, người học nghề gây ra. Điều kiện để áp dụng Điều 622 là người gây thiệt hại phải là “người làm công, người học nghề” nhưng BLDS lại không định nghĩa về thuật ngữ này. Phân tích một số hoàn cảnh ta thấy khái niệm người làm công, người học nghề đôi khi rất khó nhận biết, đặc biệt là khái niệm người làm công. Người làm công là người thực hiện một công việc cho người khác. Nhưng không phải cứ làm một công việc cho người khác thì là người làm công. Như thực hiện công việc không có ủy quyền là làm công việc cho người khác mà việc thuwch hiện công việc không nhận được “ mệnh lệnh” hay chỉ dẫn của ai. Hay khái niệm “công việc được giao” một khái niệm khá cần thiết để có cơ sở xác định chủ thể có trách nhiện bồi thường cũng không được quy định
Bên cạnh đó pháp luật cũng chưa quy định về nghĩa vụ hoàn trả của người làm công người học nghề gây ra, điều kiện áp dụng TNBTTH do người làm công, người học nghề gay ra chưa rõ ràng. Theo quy định của BLDS năm 2005 người sử dụng người làm công, người học nghề được yêu cầu hoàn trả một khoản tiền  khi người làm công, người học nghề “có lỗi trong việc gay thiệt hại”. Do vậy, nếu họ không có lỗi thì không phải hoàn trả. Tuy nhiên BLDS lại không quy định “lỗi” ở đây là gì? Lỗi có thể hiểu theo hai cách. Thứ nhất là lỗi so với người bị thiệt hại. thứ hai là lỗi được đánh giá từ góc độ quan hệ giữa người làm công và người được giao công việc. Và nếu hoàn trả thì phải hoàn trả bao nhiêu? BLDS thì quy định người làm công người học nghề “ hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”, quy định ở đây không rõ ràng.
Do đó, cần phải đưa ra khái niệm người làm công, người học nghề để có cái nhìn đúng đắn về TNBTTH do người làm công, người học nghề gây ra. Hiện nay, chỉ có khái niệm người lao động được quy định trong luật lao động còn chưa có bất kì một khái niệm nào về người làm công, người học nghề điều này rất dễ gây nhầm lẫn
 Quy định cụ thể điều kiện phát sinh TNBTTH do người làm công, người học nghề gây ra. Thực tiễn xét xử cho thấy trong thời gian qua có rất nhiều tòa án cứ thấy thiệt hại có liên quan tới người làm công, người học nghề gây ra là áp dụng TNBTTH do người làm công, người học nghề gây ra trong khi đang thực hiện công việc được giao hay không. Là một trường hợp cụ thể của TNBTTHNHĐ nhưng TNBTTH này cũng có những khác biệt cơ bản, những thiếu sót nhầm lẫn  trong nghiên cứu áp dụng luật về TNBTTH do người làm công, người học nghề gây ra cần có những quy định hướng dẫn về các điều kiện phát sinh.
Việc xác định chủ thê có trách nhiệm bồi thường có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ nhanh và kịp thời quyền và lợi ích của người bị thiet hại. Công việc được giao là một yếu tố quan trọng trong việc xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Để xác định vấn đề này cần xác định những trường hợp cụ thể:
-Nếu người làm công người học nghề thực hiện công việc được giao theo đúng như chỉ dẫn của người sử dụng lao động làm công, người học nghề gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về người làm công, học nghề. Khi đó người sử dụng lao động lam công, người dạy nghề có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại và có quyền yêu câu người làm công hoàn trả một khoản tiền
-Nếu người sử dụng lao động làm công, người dạy nghề có giao cho người làm công, người học người học nghề thực hiện một công việc nhưng không hề chỉ dẫn họ phải làm thế nào, mà trong quá trình thực hiện người làm công, người học nghề tự ý làm theo ý mình gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về cả hai bên: một bên là người sử dụng lao động làm công, người dạy nghề; một bên là người học nghề, làm công. Khi đó người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người làm công, người dạy nghề trực tiếp bồi thường. tuy nhiên, liệu đây co phải là trach nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại hay không và trách nhiệm của mỗi chủ thể như thế nào thì các nhà làm luật cần phải nghiên cứu cụ thể để có văn bản hướng dẫn cho vẫn đề này.
Quy định cụ thể về phương thức hoàn trả cũng như mức hoàn trả, trước hết là tạo tâm lí thoải mái cho người sử dụng lao động, người học nghề trong việc bồi thường kịp thời cho người gây thiệt hại. Bên cạnh đó việc quy định cụ thể vấn đề này sẽ giúp việc hoàn trả được dễ dàng và nhanh chóng, tránh tình trạng vừa giải quyết được tranh chấp trong vấn đề bồi thường thì lại phát sinh tranh chấp trong việc hoàn trả
Thứ hai, liên quan tới vấn đề chậm tiếp nhận nghĩa vụ
 Pháp luật dân sự Việt Nam mới chỉ quy định về việc nghĩa vụ thông báo của bên chậm thực hiện nghĩa vụ và quyền gia hạn của bên có quyền mà không hề có một quy định nào về việc đốc thúc của bên có quyền về việc bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa vụ. Tới thời hạn nghĩa vụ phải thực hiện, mà bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền có sự đốc thúc mà bên kia vẫn không thực hiện thì sự chậm trả đó mới khiến cho bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự. Khi không thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền kiện người chậm thực hiện ra tòa. Điều này dẫn đến một số bất cập. Như việc bên có nghĩa vụ có khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng do không nhớ mà dẫn tới việc quên và quá hạn thực hiện , bên kia lại không đốc thúc và khi hết hạn chưa thực hiện lại phải nhờ tòa án giải quyết. Cần phải có quy định “ Người có nghịa vụ chỉ bị bồi thường thiệt hại nếu đốc thúc mà vẫn không thực hiện nghĩa vụ” . Quy định như thế này làm giảm thiểu sự tham gia của tòa án vào việc giải quyết tranh chấp, làm người có nghĩa vụ tự giác và cần thấy phải nhanh chóng thực hiện nghĩa vụ của mình, tạo sự chủ động cho bên có quyền. Tuy nhiên sự đốc thúc này không vi phạm pháp luật và trái với đạo đức xã hội.


Danh mục tài liệu tham khảo
1.     Giáo trình “Luật Dân sự Việt Nam” tập 2, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công An nhân dân.
2.     Giáo trình “Luật Dân sự Việt Nam” tập 2, TS.Lê Đình Nghị chủ biên, NXB giáo dục Việt Nam.
3.     Bộ luật dân sự Việt Nam
4.     Bình luận khoa học BLDS năm 2005 (tập II) phần thứ ba: nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự - Bộ tư pháp VIện khoa pháp lý
5.     Chủ biên: PGS Hoàng Thế Liên – nxb chính trị quốc gia, năm 2009
6.     Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng từ quy định của pháp luật đến thực tiễn – TS. Trần Thị Huệ- TS> Vũ Thi Hải Yến – Ths. Vũ Thị Hồng Yến- nxb tư pháp, năm 2009
7.     Các quy định về BTTH- NXB thống kê, năm 2006
8.     Các biên pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam – Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh ts. Đỗ Văn Đại – NXB chính trị quốc gia năm 2010
9.     Nghị định 148..
10.                         





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét