Đề bài số 04:
Anh A là người đang học
nghề tại cơ sở sửa chữa xe máy của ông B. Trong giấy phép thì cơ sở này không
được quyền dạy nghề nhưng thực tế, vì ông B là một thợ có tay nghề cứng và rất
giỏi nên ông vẫn thường xuyên nhận dạy nghề cho những người có nhu cầu như anh
A. Trong 1 lần, anh A được giao sửa 1 chiếc xe SH của anh C. Anh A đã sửa xong
và có điện thoại hẹn anh C 4 giờ chiều ngày 20/6/2013 đến lấy. Quá giờ hẹn,
không thấy anh C đến lấy nên anh A đợi thêm 2 tiếng nữa. Đến 6 giờ tối cũng không
thấy anh C đến, sợ để xe ở xưởng sữa chữa không yên tâm vì xe có giá trị lớn
nên anh A mang xe anh C về nhà. Trên đường về, qua đoạn ngã tư, do D lái xe
vượt đèn đỏ đâm vào anh A đang đi xe SH của anh C làm xe bị hư hỏng nặng, sửa
chữa mất khoảng 15 triệu. Sáng sớm hôm sau, anh C đến lấy xe thì thấy xe hỏng,
bực mình quá anh yêu cầu ông B bồi thường. Ông B thì giải thích rằng ông không
cho phép anh A đi xe về và kể cả việc mang xe anh C về của anh A ông cũng không
biết nên ông không có trách nhiệm. Hơn nữa, lúc đó cũng không còn là giờ làm
việc, học việc nữa nên ông không có trách nhiệm. Về phía anh A, anh bảo anh
không có lỗi, do D vi phạm luật giao thông nên đương nhiên D phải có trách
nhiệm bồi thường cho anh C. Vậy, hỏi nhóm:
1. Trường hợp bồi thường này là bồi thường ngoài hợp đồng hay bồi
thường do vi phạm hợp đồng sửa chữa xe máy mà anh C giao kết với cơ sở của ông
B?
2. Để bảo vệ quyền lợi cho mình, anh C cần phải làm những gì?
3. Nếu nhóm là cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhóm áp dụng quy
định pháp luật nào để giải quyết và giải quyết như thế nào?
4. Có cần sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh quy định pháp luật nào để
giải quyết tình huống này hợp lý hơn không?
Lời mở đầu
Hiện nay, trên thực tế, có
nhiều trường hợp, tình huống xảy ra trong đời sống chúng ta đều liên quan đến
những trách nhiệm bồi thường trong luật dân sự, trong đó có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc pháp luật quy định về trách nhiệm bồi
thường cũng như các điều luật các liên quan đã phần nào giải quyết, đáp ứng được
các tình huống thực tế song vẫn còn nhiều bất cập. Để hiểu rõ hơn về vấn đề
này, nhóm B1 chúng em xin chọn đề số 4: đề tình huống để hoàn thành bài tập
nhóm tháng 2 môn Luật Dân sự Việt Nam (tập 2).
Phần 1. Nội dung.
Sau đây, nhóm chúng em xin
giải quyết bốn yêu cầu của tình huống:
1. Trường hợp bồi thường này
là bồi thường ngoài hợp đồng.
Trong trường hợp này, để
xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay bồi thường do hành vi vi phạm
hợp đồng sửa chữa xe máy cần phân tích hành vi của các chủ thể. Xem hành vi nào
là vi phạm hợp đồng, hành vi nào vi phạm pháp luật, hành vi nào gây thiệt hại
thực tế, từ đó mới có căn cứ để xác định tính chất của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong trường hợp này.
Thứ nhất, về phía ông B, cơ sở sửa chữa xe máy của ông không có
giấy phép dạy nghề vì vậy trên thực tế anh A theo học và làm việc ở cơ sở của
ông không phải việc học nghề theo quy định của pháp luật, tức là pháp luật
không thừa nhận anh A là người học nghề của cơ sở này. Anh A không có bằng cấp
về sửa chữa xe máy. Khoản 2, 3 điều 522 BLDS năm 2005 quy định về nghĩa vụ của
bên cung ứng dịch vụ, theo đó bên cung ứng dịch vụ “không được giao cho người
khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ”;
“bảo quản và phải giao lại cho bên thuê dịch vụ tài liệu và phương tiện được
giao sau khi hoàn thành công việc”. Trong vụ việc này, khi ông B giao cho anh A
sửa xe SH của anh C là vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng dịch vụ còn việc bảo
quản và trả lại tài sản phát sinh từ việc chậm trễ của anh C và hành vi của anh
A nên việc xe bị tai nạn và hư hỏng không có lỗi của ông B. Theo khoản 2 điều
521BLDS năm 2005: “Trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu
bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên, hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng của
ông B không gây thiệt hại thực tế do vậy không phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Thứ hai, về hành vi của anh A tự ý mang xe anh C về nhà. Trong vụ
việc có nêu rõ, việc anh A mang xe về nhà là do đã quá thời hạn nhận xe theo
thỏa thuận hơn 2 tiếng mà anh C chưa đến, hành vi mang xe của anh C về nhà mình
hoàn toàn do không yên tâm vì khối tài sản quá lớn. Theo quy định điều 594 BLDS
2005 có thể khẳng định trong trường hợp này anh A thực hiện công việc không có
ủy quyền, việc tự ý mang xe của anh C về không vi phạm quy định của pháp luật.
Thứ ba, trong thời gian anh A thực hiện công việc không có ủy quyền,
D lái xe vượt đèn đỏ đâm vào anh A đang đi xe SH của anh C làm xe bị hỏng nặng
sửa chữa mất khoảng 15 triệu đồng. Điều 597 BLDS năm 2005 có quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người thực hiện công việc không có ủy quyền gây
ra, tuy nhiên việc thiệt hại không do lỗi của anh A nên không hình thành trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp này.
Thứ tư, về hành vi của anh D.
-
Anh D đã gây thiệt hại cho xe của anh C, thiệt hại này đã xảy
ra trên thực tế gây tổn thất cho tài sản
là chiếc xe máy SH thuộc sở hữu của anh C và xác định được số tiền để sửa chữa
chiếc xe máy bị đâm là khoảng 15 triệu đồng.
-
Anh D đã thực hiện một hành vi trái pháp luật là vượt đèn đỏ,
vi phạm luật giao thông.
-
Hành vi trái pháp luật của anh D là nguyên nhân trực tiếp dẫn
tới thiệt hại cho chiếc xe SH của anh C và thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu
của hành vi vượt đèn đỏ của anh D. Nếu D không vượt đèn đỏ thì chiếc xe SH của
anh C mà anh A đi sẽ không bị hỏng. nói cách khác, việc hỏng xe SH của anh C
nằm ngoài ý chí của anh A.
-
Vấn đề lỗi, ở đây anh D là người có lỗi. Có thể anh D đã thấy
trước được hành vi vượt đèn đỏ của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được do đó D vẫn thực hiện
hành vi vượt đèn đỏ.
Từ những căn cứ trên,
trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng pháp sinh giữa anh D và anh C, hai người này không có quan hệ hợp đồng
nhưng D đã gây thiệt hại cho tài sản thuộc sở hữu của anh C là chiếc xe máy SH
khi anh A lái chiếc xe máy này về nhà vì sợ để lại xưởng sửa chữa không yên tâm
do anh C không tới lấy xe đúng thời gian đã hẹn với anh A.
2. Để bảo vệ quyền lợi của
mình, anh C cần làm những gì?
C giao cho cơ sở sữa chữa xe máy của
ông B sửa chữa chiếc xe máy SH của mình và B đã nhận sửa chữa. Căn cứ vào điều
518 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên
thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.” và điều 519 Bộ
luật dân sự năm 2005: “ Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể
thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội” thì đây là
một hợp đồng dịch vụ và C là bên thuê dịch vụ; B là bên cung ứng dịch vụ.
Trong giấy phép kinh doanh
thì cơ sở sữa chữa xe máy của ông B không được quyền dạy nghề nhưng thực tế thì
ông B thường xuyên nhận dạy nghề cho những người có nhu cầu như anh A và anh A
đã được ông B giao cho sửa chiếc xe SH của C. Như vậy, có thể thấy rằng, theo
quy định của pháp luật thì A không phải là người thuộc bên cung ứng dịch vụ.
Căn cứ vào khoản 2 điều 522 Bộ luật Dân sự
năm 2005 về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ: “Không được giao cho
người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch
vụ” thì việc ông B giao cho A sửa chữa
chiếc xe của C mà chưa được sự đồng ý của C là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng với C.
Do D vượt đèn đỏ, đâm vào
chiếc xe của C làm xe bị hư hỏng nặng, sửa chữa hết khoảng 15 triệu. Theo quy
định tại điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại:
“1.Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc
chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp
luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có
lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Và theo hướng dẫn tại nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm: Thứ
nhất, có hành vi trái pháp luật - những xử sự cụ thể của con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp
luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Chỉ những quyền và lợi ích hợp pháp
được pháp luật bảo vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích đó mới là
hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi hành vi xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp đều là hành vi trái pháp luật bởi trên thực
tế cũng như dưới giác độ pháp lý, có những hành vi xâm phạm đén quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác nhưng được pháp luật cho phép thực hiện hoặc bắt
buộc phải thực hiện. (Điều 262, khoản 1 Điều 614 BLDS 2005)
Thứ hai, phải có thiệt hại xảy ra. Đây là điều kiện tiên
quyết của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cũng là một điểm
khác biệt so với trách nhiệm theo hợp đồng. Trong hợp đồng các bên có thể thỏa
thuận việc vi phạm khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ mà không cần chứng minh có thiệt hại xảy ra hay không. Trái lại,trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên bị thiệt hại bắt buộc phải chứng
minh thiệt hại xảy ra. Nếu không có thiệt hại thì mặc dù có hành vi vi phạm
pháp luật cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường mặc dù có thể phát sinh
trách nhiệm pháp lý khác.
Thứ ba, người có hành vi vi phạm pháp luật phải có lỗi. Lỗi
bao gồm lỗi cố ý hoặc vô ý. Tuy là một trong những điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nhưng vì hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực
hiện hành vi đó luôn bị suy đoán là có lỗi nên vẫn phải bồi thường thiệt hại.
Và lỗi không phải là yếu tố quan trọng
để quy kết trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thứ tư, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi
trái pháp luật, tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là
nguyên nhân gây ra thiệt hại thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường cho
người bị thiệt hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể rất khó xác định
mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và
hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại, đặc biệt là đối với trường hợp
gây ô nhiễm môi trường.
Trong trường hợp này, do D
vượt đèn đỏ đâm vào A nên lỗi hoàn toàn là của D. Hành vi trái pháp luật của D là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại xảy ra cho C: chiếc xe hư hỏng nặng
phải sửa chữa mất 15 triệu đồng. Dựa vào các căn cứ nên trên, D phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho C. Để đảm bảo quyền lợi cho mình, C có quyền yêu
cầu D phải bồi thường thiệt hại cho mình.
3. Cách giải quyết của nhóm.
tt Để bảo vệ quyền lợi cho C thì trước hết phải làm rõ mối
quan hệ giữa các chủ thể. Từ đó có thể thấy được quyền và lợi ích hợp pháp của
anh C, đồng thời đưa ra cách thức để anh C bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Thứ nhất là mối quan hệ giữa anh C và ông B. Anh C giao cho cơ sở sữa chữa xe máy
của ông B sửa chữa chiếc xe máy SH của mình và B đã nhận sửa chữa. Căn cứ vào
điều 518 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên
thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.” và điều 519 Bộ
luật dân sự năm 2005: “ Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể
thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội” thì đây là
một hợp đồng dịch vụ. Như vậy, C và B là hai bên chủ thể trong quan hệ hợp
đồng, trong đó C là bên thuê dịch vụ; B là bên cung ứng dịch vụ.
Thứ hai là mối quan hệ giữa anh A
và ông B. Trong giấy phép kinh doanh thì cơ sở sữa chữa xe máy của ông B không
được quyền dạy nghề nhưng thực tế thì ông B thường xuyên nhận dạy nghề cho
những người có nhu cầu như anh A và anh A đã được ông B giao cho sửa chiếc xe
SH của C. Hơn nữa, đề bài cũng không đề cập tới hợp đồng lao động giữa A và B
nên anh A không được xác định là người làm công của C (vì nếu có hợp đồng lao
động thì việc B dạy nghề cho A coi như là đang đào tạo A để làm việc cho mình).
Như vậy, có thể thấy rằng, theo quy định của pháp luật thì A không phải là
người thuộc bên cung ứng dịch vụ.
Căn cứ vào khoản 2
điều 522 Bộ luật Dân sự năm 2005 về
nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ: “Không được giao cho người khác thực hiện
thay công việc, nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ” thì việc ông B giao cho A sửa chữa chiếc xe của C
mà chưa được sự đồng ý của C là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng với C.
Thứ ba là mối quan hệ giữa anh C
và anh A. Theo dữ kiện của để bài: Anh A
đã sửa xong và hẹn anh C 4 giờ chiều ngày 20/6/2013 đến lấy. Quá giờ hẹn không
thấy anh C đến lấy nên anh A đợi thêm 2 tiếng nữa. Đến 6 giờ tối cũng không
thấy anh C đến, sợ để xe ở xưởng sửa chữa không yên tâm vì xe có giá trị lớn
nên A mang xe của anh C về nhà. Căn cứ vào điều 594 BLDS 2005: “Thực hiện công
việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc
nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”
thì A được xác định là người thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong
trường hợp A chưa đủ điều kiện để điều khiển xe SH của anh C thì A cũng có lỗi,
vi phạm nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền (khoản 1 điều 595:
“Người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc
phù hợp với khả năng điều kiện của mình”). A hoàn toàn có khả năng lựa chọn
hành vi, thay vì mang xe về nhà thì A có thể báo cho chủ cơ sở sửa chữa xe là
ông B để hỏi ý kiến, chiếc xe SH của C sẽ trông giữ và bảo quản ngay tại cơ sở
sửa chữa của ông B.
Thứ 4 là mối quan hệ giữa A và D, giữa D và C.
Do D lái xe vượt đèn
đỏ đâm vào anh A đang đi chiếc xe SH của anh C làm xe bị hư hỏng nặng, sửa chữa
hết khoảng 15 triệu. Anh A là người đang trực tiếp chiếm hữu và sử dụng chiếc
xe SH và đã bị D đâm vào. Anh C là chủ sở hữu của chiếc xe SH.
Theo quy định tại điều 604 Bộ luật dân sự năm
2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“1.Người
nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm
danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường…”
Và theo hướng dẫn tại
nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm:
Một là, có hành vi
trái pháp luật - những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành
động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe,danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ thể khác. Chỉ những quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo
vệ thì các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích đó mới là hành vi trái pháp
luật. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi hành vi xâm phạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp đều là hành vi trái pháp luật bởi trên thực tế cũng như dưới
giác độ pháp lý, có những hành vi xâm phạm đén quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác nhưng được pháp luật cho phép thực hiện hoặc bắt buộc phải thực
hiện. (Điều 262, khoản 1 Điều 614 BLDS 2005)
Hai
là, phải có thiệt hại xảy ra. Đây là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng và cũng là một điểm khác biệt so với trách
nhiệm theo hợp đồng. Trong hợp đồng các bên có thể thỏa thuận việc vi phạm khi
một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà không cần chứng
minh có thiệt hại xảy ra hay không. Trái lại,trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, bên bị thiệt hại bắt buộc phải chứng minh thiệt hại xảy ra.
Nếu không có thiệt hại thì mặc dù có hành vi vi phạm pháp luật cũng không phát
sinh trách nhiệm bồi thường mặc dù có thể phát sinh trách nhiệm pháp lý khác.
Ba
là, người có hành vi vi phạm pháp luật phải có lỗi. Lỗi bao gồm lỗi cố ý hoặc
vô ý. Tuy là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nhưng vì hành vi gây
thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó luôn bị suy
đoán là có lỗi nên vẫn phải bồi thường thiệt hại. Và lỗi không phải là yếu tố
quan trọng để quy kết trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bốn là, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật,
tức là hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại phải là nguyên nhân gây
ra thiệt hại thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường cho người bị thiệt
hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể rất khó xác định mối quan
hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi
trái pháp luật của người gây thiệt hại, đặc biệt là đối với trường hợp gây ô
nhiễm môi trường.
Trong trường hợp này,
do D vượt đèn đỏ đâm vào A nên lỗi hoàn toàn là của D. Hành vi trái pháp luật
của D là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại xảy ra cho C: chiếc xe hư hỏng
nặng phải sửa chữa mất 15 triệu đồng. Dựa vào các căn cứ nên trên, D
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C.
Căn cứ vào khoản 2,
khoản 5 phần 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“2.1. Khi giải quyết tranh
chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc
bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS. Cần phải tôn trọng thỏa thuận
của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường,
nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội.”; 5.1 a, “Người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại phải nêu rõ
từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi thường và phải có chứng
từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập của
người bị thiệt hại”
Như vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình,
anh C sẽ đưa ra các giấy tờ chứng minh mình là chủ sở hữu chiếc xe SH mà D gây
thiệt hại, yêu cầu anh D bồi thường thiệt hại cho mình, thỏa thuận với anh D về
mức bồi thường, hình thức và phương thức bồi thường. Trong trường hợp khả năng
tài chính của anh D thấp, không đủ khả năng để bồi thường thiệt hại cho anh C,
để đảm bảo quyền và lợi ích của mình một cách kịp thời và toàn bộ thì anh C có
thể đến gặp ông B – bên cung ứng dịch vụ sửa chữa xe và anh A người trực tiếp
điều khiển xe SH bị thiệt hại để thỏa thuận về việc yêu cầu ông B, anh A thực
hiện việc bồi thường thiệt hại cho trước sau đó anh D phải hoàn trả lại khoản
tiền đó. Theo đó, anh C sẽ đưa ra những thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ cũng
như nghĩa vụ của hai bên khi tham gia quan hệ hợp đông này làm lí do, căn cứ để
yêu cầu ông B, anh A bồi thường thiệt hại cho anh. Anh C sẽ lập luận là anh C
đã giao chiếc xe SH cho ông B yêu cầu sửa chữa thì ông B phải có nghĩa vụ giao
lại chiếc xe ít nhất là chiếc xe ở tình trạng ban đầu; anh C thừa nhận lỗi
không nhận xe đúng giờ hẹn (vì có những công việc khẩn cấp, bị tai nạn,…) nhưng
không chấp nhận nhận lại phương tiện là chiếc xe SH đã bị hư hỏng và cũng không
đồng ý cho anh A (không phải người của bên cung ứng dịch vụ) sửa chữa cho chiếc
xe SH của mình, yêu cầu ông B phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp các
bên không thỏa thuận được với nhau thì anh C làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết.
Anh C phải nêu rõ từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức yêu cầu bồi
thường và phải có chứng từ hoặc giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí hợp
lý và thu nhập thực tế bị thiệt hại do không có phương tiện đi lại. Anh C cần
cung cấp cho tòa về các thông tin liên quan đến hợp đồng dịch vụ giữa anh C và
ông B. Tòa án sẽ dựa vào các căn cứ các bên cung cấp (việc chứng minh không có
lỗi thuộc nghĩa vụ của người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại) và xem xét sự
việc thực tế, về mức độ phù hợp của hành vi anh A mang xe SH về nhà, từ đó có
thể yêu cầu ông Bvà anh A bồi thường thiệt hại cho anh C; anh D có nghĩa vụ
hoàn trả cho ông B và anh A.
4.
Cần sửa đổi bổ sung quy
định của pháp luật để giải quyết tình huống này hợp lý hơn.
Với những quy định của pháp luật hiện hành,
TNBTTHNHĐ nói chung và BTTH do người làm công, người học nghề gây ra còn khá
nhiều bất cập dẫn đến những tồn tại vướng mắc trong thực tiễn áp dụng như:
Thứ
nhất, về các hạn chế của pháp luật xung quanh trách nhiệm bồi thường của người
làm công.
Những
quy định của pháp luật chưa đầy đủ, hơn nữa lại không có bất kì một văn bản hướng
dẫn nào về vấn đề BTTH do người làm công, người học nghề gây ra. Pháp luật dân
sự hiện hành chưa đưa ra khái niệm người làm công, người học nghề cũng như
TNBTTh do người làm công, người học nghề gây ra. Điều kiện để áp dụng Điều 622
là người gây thiệt hại phải là “người làm công, người học nghề” nhưng BLDS lại
không định nghĩa về thuật ngữ này. Phân tích một số hoàn cảnh ta thấy khái niệm
người làm công, người học nghề đôi khi rất khó nhận biết, đặc biệt là khái niệm
người làm công. Người làm công là người thực hiện một công việc cho người khác.
Nhưng không phải cứ làm một công việc cho người khác thì là người làm công. Như
thực hiện công việc không có ủy quyền là làm công việc cho người khác mà việc
thuwch hiện công việc không nhận được “ mệnh lệnh” hay chỉ dẫn của ai. Hay khái
niệm “công việc được giao” một khái niệm khá cần thiết để có cơ sở xác định chủ
thể có trách nhiện bồi thường cũng không được quy định
Bên
cạnh đó pháp luật cũng chưa quy định về nghĩa vụ hoàn trả của người làm công
người học nghề gây ra, điều kiện áp dụng TNBTTH do người làm công, người học
nghề gay ra chưa rõ ràng. Theo quy định của BLDS năm 2005 người sử dụng người làm
công, người học nghề được yêu cầu hoàn trả một khoản tiền khi người làm công, người học nghề “có lỗi
trong việc gay thiệt hại”. Do vậy, nếu họ không có lỗi thì không phải hoàn trả.
Tuy nhiên BLDS lại không quy định “lỗi” ở đây là gì? Lỗi có thể hiểu theo hai
cách. Thứ nhất là lỗi so với người bị thiệt hại. thứ hai là lỗi được đánh giá từ
góc độ quan hệ giữa người làm công và người được giao công việc. Và nếu hoàn trả
thì phải hoàn trả bao nhiêu? BLDS thì quy định người làm công người học nghề “
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”, quy định ở đây không rõ
ràng.
Do
đó, cần phải đưa ra khái niệm người làm công, người học nghề để có cái nhìn
đúng đắn về TNBTTH do người làm công, người học nghề gây ra. Hiện nay, chỉ có
khái niệm người lao động được quy định trong luật lao động còn chưa có bất kì một
khái niệm nào về người làm công, người học nghề điều này rất dễ gây nhầm lẫn
Quy định cụ thể điều kiện phát sinh TNBTTH do
người làm công, người học nghề gây ra. Thực tiễn xét xử cho thấy trong thời
gian qua có rất nhiều tòa án cứ thấy thiệt hại có liên quan tới người làm công,
người học nghề gây ra là áp dụng TNBTTH do người làm công, người học nghề gây
ra trong khi đang thực hiện công việc được giao hay không. Là một trường hợp cụ
thể của TNBTTHNHĐ nhưng TNBTTH này cũng có những khác biệt cơ bản, những thiếu
sót nhầm lẫn trong nghiên cứu áp dụng luật
về TNBTTH do người làm công, người học nghề gây ra cần có những quy định hướng
dẫn về các điều kiện phát sinh.
Việc
xác định chủ thê có trách nhiệm bồi thường có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ nhanh và kịp thời quyền và lợi ích của người bị thiet hại. Công việc được
giao là một yếu tố quan trọng trong việc xác định chủ thể có trách nhiệm bồi
thường. Để xác định vấn đề này cần xác định những trường hợp cụ thể:
-Nếu
người làm công người học nghề thực hiện công việc được giao theo đúng như chỉ dẫn
của người sử dụng lao động làm công, người học nghề gây ra thiệt hại thì trách
nhiệm bồi thường thuộc về người làm công, học nghề. Khi đó người sử dụng lao động
lam công, người dạy nghề có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại và có
quyền yêu câu người làm công hoàn trả một khoản tiền
-Nếu
người sử dụng lao động làm công, người dạy nghề có giao cho người làm công, người
học người học nghề thực hiện một công việc nhưng không hề chỉ dẫn họ phải làm
thế nào, mà trong quá trình thực hiện người làm công, người học nghề tự ý làm
theo ý mình gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về cả hai bên:
một bên là người sử dụng lao động làm công, người dạy nghề; một bên là người học
nghề, làm công. Khi đó người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người làm công, người
dạy nghề trực tiếp bồi thường. tuy nhiên, liệu đây co phải là trach nhiệm liên
đới bồi thường thiệt hại hay không và trách nhiệm của mỗi chủ thể như thế nào
thì các nhà làm luật cần phải nghiên cứu cụ thể để có văn bản hướng dẫn cho vẫn
đề này.
Quy
định cụ thể về phương thức hoàn trả cũng như mức hoàn trả, trước hết là tạo tâm
lí thoải mái cho người sử dụng lao động, người học nghề trong việc bồi thường kịp
thời cho người gây thiệt hại. Bên cạnh đó việc quy định cụ thể vấn đề này sẽ
giúp việc hoàn trả được dễ dàng và nhanh chóng, tránh tình trạng vừa giải quyết
được tranh chấp trong vấn đề bồi thường thì lại phát sinh tranh chấp trong việc
hoàn trả
Thứ
hai, liên quan tới vấn đề chậm tiếp nhận nghĩa vụ
Pháp luật dân sự Việt Nam mới chỉ quy định về
việc nghĩa vụ thông báo của bên chậm thực hiện nghĩa vụ và quyền gia hạn của
bên có quyền mà không hề có một quy định nào về việc đốc thúc của bên có quyền
về việc bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa vụ. Tới thời hạn nghĩa vụ phải thực
hiện, mà bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền có sự đốc thúc
mà bên kia vẫn không thực hiện thì sự chậm trả đó mới khiến cho bên có nghĩa vụ
phải chịu trách nhiệm dân sự. Khi không thực hiện nghĩa vụ khi đến hạn thì bên
bị vi phạm hợp đồng có quyền kiện người chậm thực hiện ra tòa. Điều này dẫn đến
một số bất cập. Như việc bên có nghĩa vụ có khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng
do không nhớ mà dẫn tới việc quên và quá hạn thực hiện , bên kia lại không đốc
thúc và khi hết hạn chưa thực hiện lại phải nhờ tòa án giải quyết. Cần phải có
quy định “ Người có nghịa vụ chỉ bị bồi thường thiệt hại nếu đốc thúc mà vẫn
không thực hiện nghĩa vụ” . Quy định như thế này làm giảm thiểu sự tham gia của
tòa án vào việc giải quyết tranh chấp, làm người có nghĩa vụ tự giác và cần thấy
phải nhanh chóng thực hiện nghĩa vụ của mình, tạo sự chủ động cho bên có quyền.
Tuy nhiên sự đốc thúc này không vi phạm pháp luật và trái với đạo đức xã hội.
Danh
mục tài liệu tham khảo
1. Giáo
trình “Luật Dân sự Việt Nam” tập 2, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công An
nhân dân.
2. Giáo
trình “Luật Dân sự Việt Nam” tập 2, TS.Lê Đình Nghị chủ biên, NXB giáo dục Việt
Nam.
3. Bộ
luật dân sự Việt Nam
4. Bình luận khoa học BLDS năm 2005 (tập II) phần
thứ ba: nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự - Bộ tư pháp VIện khoa pháp lý
5.
Chủ biên: PGS Hoàng Thế Liên
– nxb chính trị quốc gia, năm 2009
6.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng từ quy định của pháp luật đến thực tiễn – TS. Trần Thị Huệ- TS> Vũ Thi
Hải Yến – Ths. Vũ Thị Hồng Yến- nxb tư pháp, năm 2009
7.
Các quy định về BTTH- NXB
thống kê, năm 2006
8.
Các biên pháp xử lý việc
không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam – Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh ts. Đỗ Văn Đại – NXB chính trị quốc gia năm 2010
9.
Nghị định 148..
10.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét