I – LỜI MỞ ĐẦU
Nhà đất là tài sản có giá trị vô cùng
lớn, liên quan mật thiết tới lợi ích của phần lớn xã hội. Vì vậy, việc chuyển
nhượng, mua bán, phân chia,…nhà đất phải tuân theo những cơ chế chặt chẽ. Tuy
nhiên, trong thực tế hiện nay nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn, tranh chấp. Vụ án
tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa ông Nguyễn Văn Minh, bà Hoàng Thị Kim Anh và
ông Nguyễn Văn Hạnh, bà Bùi Thị Thủy dưới đây là một ví dụ điển hình.
Tòa án đã dựa trên những căn cứ nào để
giải quyết vụ án?; những điểm đúng, sai, hợp lí, chưa hợp lí,…cùng những đề
xuất về hướng giải quyết sẽ được nhóm làm sáng tỏ.
II – NỘI DUNG
Tóm
tắt vụ án
Vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa
nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1954 và vợ là bà Hoàng Thị Kim Anh
sinh năm 1961 với bị đơn là ông Nguyễn Văn Hạnh sinh năm 1966 và vợ là bà Bùi
Thị Thúy sinh năm 1954.
Diện tích nhà đất xảy ra tranh chấp tọa
lạc tại số 5 ngõ 97 đường Vân Hồ 3 phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, thành
phố Hà Nội có nguồn gốc là của cha mẹ ông Minh và ông Hạnh đứng tên chủ hợp đồng
thuê của nhà nước từ năm 1954. Sau khi cha mẹ hai ông chết thì hai gia đình ông
Minh và gia đình ông Hạnh sử dụng diện tích nhà đất này. Theo trình bày của ông
Minh thì hợp đồng thuê nhà từ đó chỉ đứng tên vợ chồng ông Hạnh cùng hai con của
ông Hạnh và vợ chồng ông cùng hai con của ông. Còn theo lời ông Hạnh thì sau
khi cha mẹ ông chết hợp đồng nhà đứng tên bà Bùi Thị Thủy (vợ ông Hạnh) rồi sau
này mới có thêm thành viên của gia đình ông Minh. Diện tích nhà chính mỗi bên sử
dụng một phần hai là khoảng hơn 10m2, còn diện tích sân bếp, vệ sinh
dùng chung.
Năm 2000-2001 hai anh em ông Minh và
ông Hạnh cùng bỏ tiền ra mua nhà theo nghị định 61/CP với diện tích đất trong hợp
đồng thuê là 46,2m2 và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
và quyền sử dụng đất ở ngày 29/8/2001.
Trong quá trình hai gia đình sử dụng đất
có cơi nới ra phía trước nhà được diện tích khoảng 15m2, phía sau bếp,
WC cơi nới được khoảng 23m2. Diện tích này là diện tích đất chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nay hai bên xảy ra tranh chấp về việc
phân chia diện tích nhà đất có trong sổ đỏ và diện tích nhà đất được cơi nới
thêm.
Tại biên bản hòa giải:
Nguyên đơn là vợ chồng ông Minh và bà Kim Anh thay đổi
nội dung khởi kiện là đề nghị Tòa án phân chia diện tích nhà đất trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 46,2m2,
còn diện tích ngoài giấy chứng nhận thì ông bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là vợ chồng ông Hạnh bà Thủy nêu quan điểm đồng
ý chia diện tích nhà đất trong sổ đó là 16,2m2, còn diện tích đất
ngoài sổ đỏ gia đình ông tự quản thì không chia.
Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm thì
phía bị đơn là ông Hạnh, bà Thủy lại cho rằng, nhà đất trên thuộc sở hữu riêng
của ông bà vì bà Thủy là chủ hợp đồng thuê nên ông bà không chấp nhận yêu cầu
chia của ông Minh và bà Kim Anh.
Quá trình giải quyết vụ việc của Tòa án
1, Kết quả xét xử sơ thẩm
tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2009/DS- ST ngày 25/5/2009 Tòa án nhân dân quận
Hai Bà Trưng, thành phó Hà Nội.
Chấp nhận yêu cầu chia tài sản thuộc sở
hữu chung của ông Minh, bà Kim Anh đối với diện tích nhà đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 5 ngõ 76 Vân Hồ 3- Hai bà
Trưng- Hà Nội.
Chia quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất cho hai hộ gia đình ông Hạnh, bà Thúy và
ông Minh, bà Kim Anh.
Sau khi xét xử sơ thẩm, phía bị đơn là
ông Hạnh, bà Thủy cùng chị Hương và anh Thắng có đơn kháng cáo.
2, Kết quả xét xử phúc
thẩm tại bản án phúc thẩm số 276/2009/DS-PT ngày 30/10/2009.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết
định sửa bản án sơ thẩm về phần án phí
(mỗi hộ được giảm 2/3 án phí vì có đơn xin miễn giảm án phí.
1.
Những khái quát chung về quyền sở
hữu.
1.1
Khái niệm về quyền sở hữu
Theo nghĩa khách quan: Quyền sở hữu là
tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra và đảm bảo thực hiện, trong
đó ghi nhận và đảm bảo cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của
mình.
Theo nghĩa chủ quan,Điều 164 BLDS2005
quy định “Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật.”
1.2
Các hình thức sở hữu
Hiến pháp
là cơ sở pháp lí quan trọng xác định các hình thức sở hữu trong bộ luật dân sự. Điều 15, Hiến pháp 1992 quy
định: “Nhà nước phát triển nền kinh tế
hang hóa nhiều thành phần theo cơ chế thụ trường có sự quản lý của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình
thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng.”
Theo tinh
thần chung đó, Điều 172,BLDS 2005 quy định: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các
hình thức sở hữu bao gồm sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở
hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của
tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề
nghiệp.”
Trong đó,
liên quan mật thiết tới vụ việc chúng ta phân tích trong bài là hình thức sở
hữu chung, mà cụ thể là sở hữu chung theo phần. Cụ thể là:
Thứ nhất, về khái
niệm: “sở hữu chung theo phần là sở hữu
chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với
tài sản chung” (Khoản 1, Điều 216, BLDS 2005).
Thứ hai về đặc
điểm,sở hữu chung theo phần có các đặc điểm về phần quyền sở hữu và nội dung
của các đồng sở hữu chủ như sau:
-
Phần quyền của các đồng sở hữu chủ theo phần luôn xác định
đối với tài sản chung (mặc dù tài sản chung là một khối thống nhất). Phần quyền
đó luôn được xác định theo một tỉ lệ nhất định trên tài sản chung, tỉ lệ đó có
thể bằng nhau, có thể không bằng nhau.
-
Tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, mỗi sở hữu chung
theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
-
Các đồng sở hữu chủ cùng nhau chiếm hữu tài sản chung theo
nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
-
Việc xác định phần quyền trong việc xác định tài sản chung
theo nguyên tắc thỏa thuận, nếu không thỏa thuận hoặc có tranh chấp sẽ xác định
theo nguyên tắc phần quyền bao nhiêu sẽ được hưởng lợi hoặc chịu rủi ro tương
ứng bấy nhiêu.
-
Phần quyền của chủ sở hữu có thể là đối tượng của giao dịch
dân sự, nếu một trong các đồng sở hữu chủ chết thì phần quyền đó để lại cho
những người thừa kế; trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần
quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì
phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước.
-
Khi một trong các đồng sở hữu chủ muốn bán phần quyền của
mình thì các chủ sở hữu khác được quyền ưu tiên mua. Đồng sở hữu chủ muốn bán
phần quyền của mình phải gửi thong báo bằng văn bản tới các đồng sở hữu chủ
khác. Trong thời hạn ba tháng đối với
tài sản chung là bất động sản, một thấng đối với tài sản chung là động sản, kể
từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thong báo vể việc bán và các điều
kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó có quyền bán
cho người khác.
Trong
trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì
trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên
mua, chủ sở chung theo phần có quyền yêu cầu tòa án chuyển phải bồi thường
thiệt hại.
2.Những căn cứ pháp lí để giải quyết
vụ án
Thứ nhất, xác định diện tích nhà đất trong vụ kiện thuộc sở
hữu chung hay sở hữu riêng
Theo
như ông Minh và bà Kim Anh thì diện tích nhà đất 46,2m2 là thuộc sở hữu chung
của gia đình ông bà và gia đình ông Hạnh, bà Thủy do trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đứng tên cả bốn người. Tuy nhiên, theo
bản tự khai của ông Hạnh và bà Thủy, hai ông bà lại cho rằng “nhà đất trên thuộc sở hữu riêng của ông bà
vì bà Thủy là chủ hợp đồng thuê”. Chính vì vậy, khi giải quyết vụ án cần
phải xác định căn nhà thuộc sở hữu chung của hai gia đình hay sở hữu riêng.
Điều
214 BLDS quy định:
“ Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài
sản.
…
Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung.”
Thứ hai, về việc nguyên đơn yêu cầu phân chia diện tích nhà
đất trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Khoản
1 Điều 224 BLDS 2005:
“1. Trong trường
hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu
chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thỏa thuận không phân chia tài
sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia
tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng
hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia”,
Vì vậy,
trong quá trình xét xử vụ án cần phải căn cứ vào quy định này để ra quyết định
có phân chia diện tích nhà đất là đối tượng của vụ kiện hay không.
Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu chia tài sản
thuộc sở hữu chung của ông Minh, bà kim Anh đối với diện tích đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất.
Thứ
ba, diện tích
trong và ngoài sổ đỏ của 2 gia đình đã được xây tường bao riêng biệt nên khi tiến
hành phân chia cần để dành một phần đất làm lối đi chung
Khoản 2, 3 Điều
275 BLDS 2005 quy định về quyền về lối đi qua bất động sản liền kề:
“2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao
của lối đi do các bên thỏa thuận bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây
phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác định.
3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ
sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người
phía trong theo quy định tại khoản 2 điều nay mà không có đền bù”
Thứ tư, khi tiến hành chia diện tích nhà đất cần xác định xem diện tích
nhà đất được chia có bảo đảm đúng kích thước tối thiểu mà pháp luật quy định
hay không
Điểm
b, Khoản 1 Điều 3 Quyết định 58 ngày
30/3/2009 của UBND thành phố Hà Nội,quy định về kích thước, diện tích đất ở
tối thiểu được phép tách thửa:
“b, có diện ích không nhỏ hơn 30m2 một thửa”
-> phần này hình như sai vì đây chỉ chia nhà đất thôi chứ không tách thửa.
Thứ
năm, giải quyết về
vấn đề cấp thoát nước
Điều 277
BLDS 2005quy định Quyền về cấp, thoát
nước qua bất động sản liền kề:
“Trong trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản
mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất
động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được
cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy. Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn
chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua
khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường
hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ
sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước
không phải bồi thường thiệt hại.”
Tòa án sơ
thẩm cũng quyết định hai bên phải giữ nguyên hiện trạng, cống thoát nước của bất
đông sản liền kề chạy qua diện tích đất của hộ gia đình, không được cản trở hoặc
ngăn chặn làm ảnh hưởng tới sinh hoạt chung...
3.
Bình luận về việc giải quyết vụ án của tòa án
Trong vụ việc trên thì Tòa án nhân dân quận Hai Bà
Trưng thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm vụ án như sau:
Thứ
nhất, Tòa chấp nhận
yêu cầu chia tài sản thuộc sở hữu chung của ông Minh, bà Kim Anh đối với diện
tích nhà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại
số 5 ngõ 76 Vân Hồ 3- Hai Bà Trưng- Hà Nội.
Có thể
thấy, để đưa ra quyết định trên thì trước hết tòa đã xác định diện tích nhà đất
trên thuộc sở hữu chung của gia đình ông Minh, bà Kim Anh và gia đình ông Hạnh
bà Thủy. Trong đơn khởi kiện, gia đình ông Minh và bà Kim Anh đã xác định diện tích nhà đất trên là do gia
đình ông và gia đình ông Hạnh đứng tên đồng sở hữu; tuy nhiên, tại phiên tòa sơ
thẩm và phúc thẩm thì vợ chồng ông Hạnh lại cho rằng nhà đất trên thuộc sở hữu
riêng của ông bà vì bà Thủy là chủ hợp đồng thuê. Tòa án chấp nhận yêu cầu chia nhà đất nghĩa
là đã phủ định ý kiến của vợ chồng ông Hạnh cho rằng nhà đất thuộc sở hữu riêng
của gia đình ông.
Quyền sở
hữu nhà và quyền sử dụng đất được chi nhận trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất. Trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng
đất ở ngày 28/9/2001 đứng tên vợ chông ông Minh và vợ chồng ông Hạnh là đồng chủ
sở hữu nên tài sản trên sẽ được xác định là thuộc sở hữu chung của hai gia
đình.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 224 thì “Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân
chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung..”
Trong vụ việc này thì tài sản chung là nhà đất là tài
sản thuộc hình thức sở hữu chung có thể phân chia vì vậy gia đình ông Minh có
yêu cầu chia là hoàn toàn hợp pháp và Tòa án chấp nhận yêu cầu này là đúng đắn.
Căn cứ vào
Thứ
hai, Tòa quyết định
dành một lối đi để hai hộ sử dụng chung có kích thước 0.8m ´ 12,82m. Quyết định này được đưa ra dựa trên quy định
tại Điều 275 BLHS về quyền về lối đi qua bất động sản liền kề. Do diện tích đất
của hai gia đình được tách thửa nên cần thiết để lại một lối đi chung để thuận
tiện cho quá trình sử dụng.
Thứ
ba, diện tích nhà đất
còn lại được tòa chia đôi cho cả hai gia đình: gia đình ông Minh và gia đình
ông Hạnh mỗi hộ được sở hữu và sử dụng 17,97m2 diện tích nhà đất trong sổ đỏ.
Phần diện tích đất cơi nới thêm thì không chia do các bên không có yêu cầu. Việc tòa án chia đôi diện
tích nhà đất theo yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp do phần quyền của
hai bên gia đình ông Hạnh và ông Minh đối với diện tích nhà đất chung không có
căn cứ xác định do hai bên cùng góp tiền mua đất (không xác định cụ thể là mỗi
bên đã góp bao nhiêu tiền) và trong quá trình sử dụng hai bên cũng cùng đóng
thuế.
Thứ
tư, tòa yêu cầu hai
bên phải giữ nguyên hiện trạng, cống thoát nước của các bất động sản liền kề chạy
ngang qua diện tích đất của hộ gia đình, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng
chảy làm ảnh hưởng đến sinh hoạt chung.
Quyết định
trên của tòa án là căn cứ vào quy định tại điều 277 BLDS về quyền về cấp thoát
nước qua bất động sản liền kề. Theo đó “...
chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp thoát nước thích
hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng chảy...”. Vì vậy, việc tòa án
đưa ra yêu cầu như trên đối với hai hộ gia đình sau khi phân chia nhà đất là
hoàn toàn hợp lí và theo đúng quy định của pháp luật.
.........còn ý về vật liệu xây
dựng thì t không tìm thấy quy định nên t không bình luận được......
Sau khi
án sơ thẩm được tuyên thì gia đình ông Hạnh, bà Thủy, chị Hương và anh Thắng có
đơn kháng cáo. Tuy nhiên, bản án phúc thẩm của Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội
quyết định giữ nguyên kết quả của bản án phúc thẩm và chỉ sửa phần án phí.
4.
Quan điểm của nhóm về giải quyết vụ án
Qua những
phân tích cũng như đánh giá, bình luận ở trên của nhóm về cách giải quyết vụ án
của Tòa án thì nhóm hoàn toàn thống nhất với cách giải quyết vụ án của tòa.
Thứ nhất,
về yêu cầu chia đôi diện tích nhà đất trong sổ đỏ của nguyên đơn. Nhà đất của
hai hộ gia đình là thuộc sở hữu chung nên vì vậy một trong hai bên có quyền yêu
cầu phân chia.(do hai bên không có thỏa thuận không phân chia tài sản trong một
thời hạn.). Do không có căn cứ xác định được phần quyền sở hữu của mỗi bên đối
với diện tích nhà đất nên nó sẽ được chia đều cho hai gia đình.
Thứ
hai, khi chia đôi diện tích nhà đất cần phải dành ra một lối đi chung cho cả
hai gia đình để tránh việc một chủ sở hữu được chia phần nhà đất phía bên trong
sẽ bị vây bọc và không có lối đi. Chính vì vậy, trước khi tiến hành chia nhà đất
cần dành một diện tchs đất nhất định để làm lối đi chung cho cả hai gia đình.
Thứ ba,
khi chia cần phải đảm bảo không ảnh hưởng đến cống thoát nước của cách bất động
sản liền kề. Yêu cầu cả hai bên giữu nguyên hiện trạng của cống thoát nước của
các bất động sản liền kề chạy ngang qua diện tích đất của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét