PHẦN MỞ ĐẦU
Trong
bộ máy nhà nước, Chính phủ là cơ quan được lập ra để tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước trên thực tế, tiến hành hoạt động quản lý, điều hành và đứng đầu hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn cũng như mô hình tổ chức và hình thức hoạt động của Chính phủ của các
nhà nước khác nhau và ngay trong một nhà nước nhưng ở các giai đoạn lịch sử
khác nhau cũng có những khác biệt nhất định. Do vậy mỗi lần thay đổi hay sửa đổi
Hiến pháp – Việt Nam, thì việc xác định lại vị trí, vai trò của Chính phủ - cơ
quan hành pháp lại nổi lên một cách gay gắt. Vì vậy em xin chọn câu hỏi : “Vị
trí, tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn bản Hiến pháp Việt Nam ” để làm
rõ hơn về Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
---™˜---
PHẦN
NỘI DUNG
I.
Khái niệm Chính phủ
Qua
bốn bản hiến pháp nhà nước ta kể cả lần sửa đổi của năm 2001, có tới năm định
nghĩa khác nhau về Chính phủ, mỗi lần thay đổi hiến pháp lại có sự thay đổi về
mặt ngôn từ .
Nhưng
suy cho cùng thì định nghĩa của Hiến pháp năm 1946 – Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thông qua dưới sự chỉ đạo một cách sát sao
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là có phần đúng và nhất là có phần cô đọng hơn cả :
“
Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hòa ” ( Điều 43 – Hiến pháp năm 1946 ). Hay có thể đọc ngược lại mà ý nghĩa của
quy phạm vẫn không có gì thay đổi : Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước
cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa .
Qua
mỗi bản Hiến pháp Chính phủ lại được gọi với những tên gọi khác nhau : Hiến
pháp năm 1946 gọi là Chính phủ, Hiến pháp năm 1959 gọi là Hội đồng Chính phủ, đến
năm 1980 lại được gọi là Hội đồng Bộ trưởng và cuối cùng từ bản Hiến pháp năm
1992 cho tới nay đã đổi lại gọi chính thức là Chính phủ .
II.
Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn bản Hiến pháp
1.
Vị trí, tính chất của Chính phủ
Theo
điều 1 – Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì “Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính
phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà
nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và
pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
Chính
phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước” . Và theo điều 109 Hiến pháp 1992 “ Chính phủ
là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”. Qua hai điều trên ta thấy Chính phủ vừa
là cơ quan chấp hành của Quốc hội, vừa là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
.
Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội thể hiện ở :
Thứ
nhất Quốc hội thành lập ra Chính phủ, quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn cho Chính phủ . Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội,
nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội .
Thứ
hai Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội,
Ủy ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước.
Thứ
ba thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, có thể bị
Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm,cách chức theo quy định của pháp luật, nhiệm kì
theo nhiệm kì của Quốc hội .
Thứ
tư, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quy định vào trong
Nghị quyết của Quốc hội à Chính phủ tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả
trên cơ sở cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, phân công, đề ra các biện
pháp thích hợp, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế.
Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thể hiện ở :
Hoạt
động quản lý nhà nước là hoạt động chủ yếu,bao trùm toàn bộ các lĩnh vực thuộc
chức năng của Chính phủ được Hiến pháp quy định, hoạt động quản lý nhà nước của
Chính phủ bao trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi cả nước : kinh tế, văn
hóa,xã hội Chính phủ thực hiện vai trò lãnh đạo,chỉ đạo,hướng dẫn thực hiện và
kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân như vậy sẽ đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước.
Bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn
trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân .
Nhưng
Hiến pháp năm 1946 lại quy định “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Theo Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc
chung tổ chức quyền lực Nhà nước là xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của
nhân dân và thể hiện rõ sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước. Đến Hiến pháp năm 1959, tại điều 71 quy định : “ Hội đồng Chính phủ
là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan
hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Những thay đổi trong
bộ máy nhà nước thời kỳ này khẳng định quan điểm mới về tổ chức bộ máy nhà nước,
theo xu hướng quyền lực nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Và theo
điều này thì một mặt Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mặt
khác là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, đứng đầu hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước, đảm nhận một chức năng hoạt động độc lập – hoạt động
hành chính Nhà nước. Từ đây có thể thấy rằng theo Hiến pháp năm 1959 Hội đồng
Chính phủ có tính độc lập tương đối. Hiến pháp năm 1959 thể hiện rõ nguyên tắc
quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất
của nhân dân và cũng cho ta thấy rằng Hội đồng Chính phủ được tổ chức hoàn toàn
theo mô hình Chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩa khác với Chính phủ trong
Hiến pháp năm 1946 xây dựng theo mô hình tư sản. Kế thừa quy định của Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 một lần nữa khẳng định tính chất chấp hành của Hội
đồng bộ trưởng trước Quốc hội song chức năng của cơ quan này đã có sự thay đổi
và vị trí cũng giống như Hiến pháp năm 1959. Theo Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ
chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981 : “Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ”. (Điều 104). Tuy nhiên Hội đồng bộ trưởng
về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Khác với Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành
và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Với
quy định này, chúng ta thấy tính độc lập tương đối của Chính phủ với Quốc hội
không còn nữa. Quy định này phản ánh quan niệm một thời cho rằng: Quốc hội là
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp và giám sát – phải thực sự trở thành “tập thể hành động”. Hội đồng bộ
trưởng được tổ chức theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành – hành chính Nhà nước
cao nhất của Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ của nó là thực hiện những hoạt động
chấp hành – hành chính được Quộc hội giao cho.Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ,
do Quốc hội lập ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội đồng thời
là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta (chứ không phải Quốc hội).
Nói cách khác nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nếu
như Hiến pháp năm 1946 không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
quyền hành chính Nhà nước cao nhất đứng riêng rẽ như một cành quyền lực độc lập
thì các Hiến pháp sau này 1959, 1980 đã thức nhận tính phụ thuộc của hành pháp
và lập pháp, chí ít là trong lĩnh vực chấp hành. Đặc biệt Hiến pháp 1980 còn thừa
nhận thật rõ, không những Chính phủ là cơ quan chấp hành, mà còn là hành chính
cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Phải đến Hiến pháp năm 1992
ta mới có thể thấy được một quy định rõ ràng. Theo Hiến pháp năm 1992 được gọi
đơn giản là Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với thay đổi về tên gọi, Chính phủ có nhiều
thay đổi theo hướng đổi mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nếu so sánh cả bốn bản
Hiến pháp của nước ta chúng ta thấy những quan niệm về tính chất của Chính phủ
có những thay đổi nhất định. Hiến pháp năm 1946 xây dựng Chính phủ theo mô hình
chính phủ tư sản nên không quy định Chinh phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện.
Hiến pháp năm 1980 xây dựng Chính phủ ( Hội đồng Bộ trưởng ) theo mô hình của
Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống
nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước
khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Vì vậy
Hiến pháp năm 1980 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là
cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội . Quy định này làm cho Chính phủ thiếu
tính độc lập tương đối trong lĩnh vực hoạt động hành chính Nhà nước. Khắc phục
nhược điểm này, Hiến pháp năm 1992 quay về với Hiến pháp năm 1959 xây dựng theo
quan điểm tập quyền, nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng
cần phải có sự phân chia chức năng rành rọt giữa các cơ quan Nhà nước lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Vì vậy Hiến pháp năm 1992 quy định : “ Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”. Với quy định này Chính phủ là cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải của Quốc hội, có thể hoạt động
một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành chính Nhà nước. Khẳng định Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhưng là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm chỉ rõ tính chất của
Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội. Chính phủ do Quốc hội
thành lập ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì
Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Tuy nhiên, Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đây là quan điểm có sự đổi mới so với Hiến pháp năm 1980, nhằm đề cao
vị trí của Chính phủ trong hoạt động quản lí nhà nước. Hoạt động quản lí nhà nước
có các đặc thù sau :
Một
là, hoạt động quản lí nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao trùm toàn bộ các lĩnh
vực thuộc chức năng của Chính phủ được Hiến pháp quy định.
Hai
là hoạt động quản lí của Chính phủ bao trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi
cả nước : kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, .
Ba
là đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản lí nhà nước, Chính phủ thực hiện
vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân.Quy định của Hiến
pháp năm 1992 về vị trí, tính chất của Chính phủ là sự kế thừa có chọn lọc quy
định của các Hiến pháp Việt Nam, đồng thời phù hợp quan điểm chung của các nhà
nước hiện đại. Để Chính phủ thật sự là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Hiến
pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức,
trật tự hình thành và các hình thức hoạt động của Chính phủ cho phù hợp yêu cầu
công cuộc đổi nới đất nước.
2.
Chức năng của Chính phủ
Về
chức năng, dù có tên gọi khác qua bốn bản Hiến pháp nhưng Chính phủ đều được
xác định là cơ quan Nhà nước có chức năng hành pháp và Chính phủ còn có chức
năng quan trọng là quản lí đất nước theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật.Chức
năng của Chính phủ được thể hiện thông qua việc :
Thống
nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Đảm
bảo hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Đảm
bảo tôn trọng và thực hiện Pháp luật.
Đảm
bảo ổn định và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân .
---™˜---
PHẦN
KẾT LUẬN
Hiện
tại, Chính phủ đã được xây dựng theo hướng tập trung vào lĩnh vực hành chính
Nhà nước, quản lí điều hành đất nước một cách chủ động. Bên cạnh tính chất là
cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Chính phủ được xác định
là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, tức là cơ quan đứng đầu hệ
thống cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở, thực hiện hoạt động
hành chính Nhà nước. Theo hướng nay đã có những sửa đổi quan trọng trong tổ chức
và hoạt động của Chính phủ như: Thủ tướng do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm
trước Quốc hội, phó thủ tướng và các bộ trưởng không nhất thiết phải là đại biểu
Quốc hội là những bảo đảm cho sự tăng cường hoạt động hành chính Nhà nước của
Chính phủ.
Tuy
nhiên, bên cạnh sự kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động hành chính, phải phân
giao cho Chính phủ đầy đủ quyền hạn tương xứng, độc lập và chủ động. Để đáp ứng
yêu cầu của giai đoạn mới, thích ứng với trình độ hội nhập, hợp tác yêu cầu đặt
ra là tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các chương
trình dự án Quốc gia, đàm phán, kí kết các điều ước Quốc tế với Chính phủ các
nước, tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong nước lãnh đạo hành chính, tổ chức
bộ máy
Nguồn:
http://www.kilobooks.com/threads/175734-vị-trí-tính-chất-chức-năng-của-Chính-phủ-qua-bốn-bản-hiến-pháp#ixzz2EuN9aoZL
Thư
Viện Điện Tử www.KILOBOOKS.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét