LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế thị trường,
thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn cầu, nó không loại trừ một quốc gia nào,
cho dù đó là quốc gia đó là nước đang phát triển hay nước có nền kinh tế phát
triển. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các mặt kinh tế, chính trị và xã hội
của mỗi quốc gia. Những hậu quả mà nó gây ra không dễ gì khắc phục được trong một
thời gian ngắn. Do vậy, giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo đảm việc làm, ổn định đời sống
cho người lao động trở thành mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia. Đối với Việt
Nam, xuất phát từ một nước nghèo, có nền kinh tế kém phát triển, dân số tăng
nhanh trong nhiều thập ký qua, thất nghiệp đang là một vấn đề gây sức ép rất lớn
đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như sự lo lắng đối với từng người
lao động. Xuất phát từ điều đó, em đã chọn đề tài: “Tình hình thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, nguyên nhân,
phương hướng và giải pháp khắc phục.”
NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề cơ bản về thất nghiệp.
1.
Các khái niệm liên quan đến thất nghiệp.
Để có cơ sở thống kê về thất nghiệp và
tỷ lệ thất nghiệp, thì cần phải nghiên cứu, phân biệt một số khái niệm dưới
đây.
Người
trong độ tuổi lao động: là những người ở độ tuổi có nghĩa vụ và quyền lợi
lao động theo quy định của pháp luật.
Lực
lượng lao động: là số người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc
chưa có việc làm nhưng đang tìm kiếm việc làm.
Người có việc làm: là những người trong độ tuổi lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp, trong các tổ chức xã hội và thu nhập
Người
thất nghiệp: Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động đang tìm kiếm
việc làm những chưa tìm kiếm được
Người
ngoài lực lượng lao động: Người ngoài lực lượng lao động là những người
trong độ tuổi lao động bao gồm người đi học, người nội trợ, ốm đau không đủ sức
khoẻ để lao động, người bị tước quyền lao động, những người không muốn tìm kiếm
việc làm với những lý do khác nhau
Người ngoài độ tuổi lao động: Là trẻ em chưa đến tuổi lao động, người già đã nghỉ hưu. Hiến Pháp
Việt Nam quy định trẻ em dưới 16 tuổi không được tham gia lao động, người Nam lớn
hơn 60 tuổi, nữ lớn hơn 55 tuổi là hết tuổi lao động. Trừ một số nghề nghiệp và
điều kiện nhất định tuổi nghỉ hưu có thể được kéo dài.
2,
Phân loại thất nghiệp
Thất
nghiệp tạm thời: Thất nghiệp tạm thời xảy ra khi có một số người lao động
đang trong thời gian tìm kiếm công việc, hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp với
nhu cầu, mong muốn của người lao động hoặc những người mới bước vào thị trường
lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm,... mọi xã hội trong bất kỳ
thời điểm nào đều tồn tại loại thất nghiệp này.
Thất nghiệp cơ cấu: Thất nghiệp cơ cấu xẩy ra khi có sự mất cân đối cung, cầu giữa các
loại lao động giữa các ngành nghề, khu vực,... Loại này gắn liền với cơ cấu
kinh tế và khả năng điều chỉnh cung cầu của thị trường lao động. Khi sự biến động
này mạnh, kéo dài thì nạn thất nghiệp trở nên trầm trọng và chuyển sang thất
nghiệp dài hạn.
Thất nghiệp do thiếu cầu: loại thất nghiệp này xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống.
Nguồn gốc chính là sự suy giảm tổng cầu. Loại này còn được gọi là thất nghiệp
chu kỳ vì các nền kinh tế thị trường luôn gắn với tính chu kỳ kinh doanh. Dấu
hiệu chứng tỏ sự xuất hiện của loại này là tình trạng thất nghiệp xảy ra tràn
lan ở khắp mọi nơi và mọi ngành nghề trong nền kinh tế.
Thất
nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này còn được gọi là thất
nghiệp theo lý thuyết cổ điển. Nó xảy ra khi tiền công tiền lương được ấn định
không bởi các lực lượng thị trường và cao hơn mức cân bằng thực tế của thị trường
lao động. Vì tiền công không chỉ có quan hệ tới sự phân phối thu nhập gắn với kết
quả lao động và gắn với mức sống tối thiểu của dân cư, nên Chính phủ của nhiều
quốc gia có quy định cứng nhắc về mức tiền công tiền lương tối thiểu. Sự không
linh hoạt của tiền công tiền lương dẫn đến một bộ phận lao động mất việc làm hoặc
khó tìm kiếm được việc làm.
Thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ
cấu xảy ra trong một bộ phân riêng biệt của thị trường lao động. Thất nghiệp
thiếu cầu xảy ra khi nền kinh tế đang đi xuống, toàn bộ thị trường lao động
trong xã hội bị ảnh hưởng mất cân bằng. Còn thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển
đó các yếu tố chính trị xã hội tác động.
Cách phân tích hiện đại về thất nghiệp đưa ra
một khái niệm mới là thất nghiệp tự nhiên. Dựa trên cơ sở xem xét sự cân bằng của
thị trường lao động và nhấn mạnh một phân loại thất nghiệp là thất nghiệp tự
nguyện và không tư nguyện.
Thất nghiệp tự nguyện: chỉ những người tự nguyện không muốn làm việc do việc làm và mức
lương tương ứng chư phù hợp với mong muốn của mình. Giả thiết này là cơ sở để
xây dựng hai đường cung lao động. Một là đường cung lao động nói chung chỉ ra
quy mô của lực lượng lao động xã hội tương ứng với các mức lương của thị trường
lao động. một đường cung chỉ ra bộ phân lao động chấp nhận việc làm với các mức
lương tương ứng của thị trường lao động. khoảng cách giữa hai đường cung biểu
thị con số thất nghiệp tự nguyện(h 7.1).
3. Quy mô thất nghiệp.
Quy mô thất nghiệp được thể hiện ở số
lượng người thất nghiệp ở một thời điểm nào đó. Quy mô thất nghiệp chịu tác động
bởi số người mới bị mất việc và số người thất nghiệp mới tìm được việc làm. Quy
mô của thất nghiệp còn gắn với khoảng thời gian thất nghiệp trung bình. Thời
gian thất nghiệp trung bình là độ dài thời gian thất nghiệp của toàn bộ số người
thất nghiệp trong cùng mộtthời kỳ.
Khi dòng vào cân bằng với dòng ra, thì
tỷ lệ thất nghiệp không đổi, nhưng nếu khoảng thời gian thất nghiệp trung bình
t ngắn lại thì cường độ, quy mô của dòng thất nghiệp sẽ tăng. Khi đó thị trường
lao động sẽ có biến động mạnh, việc tìm kiếm sắp xếp việc làm trở nền khó khăn
và phức tạp hơn. Nếu hoạt động của thị trường lao động yếu kém thì thất nghiệp
sẽ tăng và tỷ lệ thất nghiệp cũng sẽ tăng.
Khi dòng vào lớn hơn dòng ra, thì số
người thất nghiệp và thời gian thất nghiệp cũng sẽ tăng, xã hội sẽ có đội quân
thất nghiệp sẽ đông đảo với thời gian thất nghiệp cũng sẽ dài hơn. Thất nghiệp
cao và dài hạn xẩy ra trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng. Tuy nhiên thất nghiệp
dài hạn cũng có thể xẩy ra ngay cả khi xã hội có nhiều công ăn việc làm. Trong
trường hợp đó lý do chủ yếu thường nằm trong việc thiếu hoàn hảo của việc tổ chức
thị trường lao động (đào tạo, môi giới, chính sách tuyển dụng, tuyển chọn, tiền
lương,...).
4. Tỷ
lệ thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp là (%) số người thất
nghiệp so với tổng số người trong lực
lượng lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp là một chỉ tiêu phản
ánh khái quát tình trạng thất nghiệp của mỗi một quốc gia. Cũng vì thế mà có những
quan điểm khác nhau về nội dung và phương pháp tính toán để tỷ lệ thất nghiệp
có khả năng biểu hiện đúng và đầy đủ các đặc điểm của tình trạng thất nghiệp thực
tế.
II.Tình hình thất nghiệp của việt nam hiện nay
1.
Thực trạng thất nghiệp của Việt Nam hiện
nay.
Kinh tế suy giảm đã dẫn đến tình trạng
thấp nghiệp gia tăng. Từ đầu 2012 đến nay, số lao động thất nghiệp tăng vọt so
với các năm trước đây. Năm 2010, cả nước có gần 190.000 người đăng ký thất nghiệp.
Năm 2011, số người đăng ký thất nghiệp đã tăng lên hơn 330.000 người. Và chỉ
trong quý 1 năm nay, có đến 116.000 người đăng ký thất nghiệp, tăng hơn 70% so
cùng kỳ năm ngoái.Theo số liệu Tổng cục thống kê công bố hôm 24/12/2012, tỷ lệ thất nghiệp của
lao động trong độ tuổi là 1,99%, giảm so với mức 2,27% năm 2011. Trong đó, tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi tại khu vực thành thị là 3,25%, khu vực
nông thôn là 1,42% (Năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,22%; 3,60%; 1,60%).
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong
độ tuổi năm 2012 là 2,8%, trong đó khu vực thành thị là 1,58%, khu vực nông
thôn là 3,35% (Năm 2011 các tỷ lệ tương ứng là: 2,96%; 1,58%; 3,56%). Tổng cục
Thống kê cho hay, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm năm 2012 giảm
nhẹ so với các tỷ lệ tương ứng của năm 2011 nhưng tỷ lệ lao động phi chính thức
năm 2012 tăng so với một số năm trước, từ 34,6% năm 2010 tăng lên 35,8% năm
2011 và 36,6% năm 2012. Như vậy, có gần 1 triệu người thất nghiệp bởi nền kinh
tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường và bộ phận lao
động thất nghiệp cũ.Tính đến thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1 triệu người từ
15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động. Trong đó, có 52,1 triệu người có việc
làm, gần 70% lực lượng lao động thuộc khu vực nông thôn.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn
khu vực nông thôn (3,3% so với 1,4% trong 3 quý đầu năm 2012). Trên cả nước,
TP. Hồ Chí Minh vẫn dẫn đầu về tỷ lệ thất nghiệp với mức 3,9%, tiếp theo đến Đồng
bằng Sông Cửu Long (không tính TP.HCM) và Hà Nội. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vực miền núi và trung du phía Bắc ở mức thấp nhất, gần 0,8%. Trong khi đó,
lao động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu vực Nhà nước có xu
hướng giảm dần qua các quý của năm 2012 (giảm 3% từ quý I đến quý III). Ngược lại,
khu vực ngoài Nhà nước, bao gồm những người tự tạo việc làm, hộ kinh doanh cá
thể, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã lại tăng lên.
2.
Nguyên nhân của thất nghiệp ở Việt Nam.
- Thất
nghiệp gia tăng do suy giảm kinh tế toàn cầu: Nguyên nhân khiến người lao động
bị mất việc chủ yếu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Nhiều doanh
nghiệp phải thu hẹp sản xuất, có doanh nghiệp phải đóng cửa hoàn toàn do sản phẩm
làm ra không tiêu thụ được, nhất là những doanh nghiệp xuất khẩu. Do đó dẫn đến
lao động mất việc làm.
-
Nếp nghĩ có từ lâu trong thanh niên là thói quen đề cao việc học để “làm thầy”
mặc dù nếu bản thân học “làm thợ” sẽ tốt hơn hay “thích làm Nhà nước, không
thích làm cho tư nhân”. Chọn nghề theo “nếp nghĩ” sẽ dễ mắc những sai lầm. Rất
nhiều lao động trẻ “nhảy việc” để tìm kiếm thu nhập cao nên dẫn đến tình trạng
dễ bị mất việc.
-
Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu mới, tính
chuyên nghiệp chưa cao. Việc kĩ năng không đáp ứng yêu cầu và sự thiếu phối
hợp giữa hệ thống đào tạo và giáo dục, các nhu cầu thị trường lao động và quan
niệm lạc hậu về vai trò và trách nhiệm giới. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề rất
thấp, chỉ khoảng 26%. Lao động của chúng ta đúng là dồi dào thật nhưng vẫn
không tìm được việc làm, hoặc có việc làm nhưng không ổn định một phần do trình
độ chưa đáp ứng được yêu cầu. Theo thống kê, cả nước hiện có 1915 cơ sở dạy nghề
(CSDN) trong đó có 1218 CSDN công lập (chiếm 64%), bao gồm: 262 trường dạy nghề,
251 trường ĐH, CĐ, TCCN và 803 cơ sở khác có dạy nghề
3. Phương hướng và giải pháp khắc phục
- Hạ
thấp tỉ lệ thất nghiệp theo lý thuyết:
+ Đối với loại thất nghiệp tự nguyện: Cấu
tạo ra nhiều công ăn việc làm và có mức tiền lương tốt hơn để tại mỗi mức lương
thu hút được nhiều lao động hơn ; Tăng cường hoàn thiện các chương trình dạy
nghề, đào tạo lại, tổ chức tốt thị trường lao động.
+ Đối với loại thất nghiệp chu kỳ: Cần
áp dụng chính sách tài khoá, tiền tệ để làm gia tăng tổng cầu nhằm kích thích
các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, theo đó thu hút được nhiều lao động. Để
xảy ra một tình trạng thất nghiệp tràn lan sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến phát
triển kinh tế xã hội. Nền kinh tế sẽ phải từ bỏ những sản phẩm, dịch vụ mà những
người công nhân bị thất nghiệp làm ra. Hơn nữa, đó còn là sự lãng phí to lớn
nguồn nhân lực đang ở độ tuổi lao động và để tồn tại một lượng lớn người mất việc
làm, để họ rơi vào tình cảnh nghèo khó sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức
tạp. Do đó, cần phải có những chính sách, kế hoạch bài bản hơn để ngăn ngừa
nguy cơ nạn thất nghiệp tiếp tục lan rộng.
- Việc đầu tư hay nói đúng hơn là kích cầu nhắm vào các doanh nghiệp
vừa và nhỏ là trọng tâm đã được xác định. Việc “bơm vốn” và áp dụng các chính
sách ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp này trước hết là nhằm kích thích sản xuất,
từ đó tạo ra việc làm. Bên cạnh đó, kích cầu bằng việc đầu tư vào phát triển và
hoàn thiện cơ sở hạ tầng đang được đánh giá là giải pháp tối ưu hơn cả. Đây
cũng là giải pháp mà các quốc gia đã từng áp dụng trước đây.
- Chú
trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Các trường dạy nghề của tổ chức công
đoàn có nhiệm vụ nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc thu hút người lao động
vào học nghề, tranh thủ lúc không có việc. Bên cạnh việc giải quyết việc làm
thì đầu tư cho công tác dạy nghề cũng là biện pháp kích cầu không kém phần quan
trọng. Trong bối cảnh lực lượng lao động mất việc làm tăng nhanh như hiện nay,
hằng năm chúng ta phải giải quyết tối thiểu cho khoảng 1,2 triệu việc làm mới,
khoảng trên 1 triệu lao động chuyển từ khu vực nông thôn ra thành thị thì sức
ép giải quyết việc làm càng trở nên nặng nề hơn.
-
Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp:
Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người
lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Bên cạnh
đó bảo hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp.
- Những
biện pháp khác:
+ Trợ cấp một tỷ lệ nhất định trong quỹ
lương ở các doanh nghiệp. Họ cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong nghĩa vụ nộp
bảo hiểm xã hội, quỹ lương hưu v.v mà mục đích không gì khác ngoài việc giúp
doanh nghiệp cắt giảm được chi phí nhân lực liên quan mà không cần phải sa thải
nhân công.
+ Cắt giảm thuế tiêu thụ cũng giúp giảm
gánh nặng chi tiêu cho người tiêu dùng với hy vọng rằng tổng cầu sẽ được duy
trì ở mức khả dĩ, tác động tích cực ngược lại đến doanh nghiệp và do đó giảm
thiểu được nạn sa thải nhân lực do sản xuất kinh doanh đình đốn.
+ Thông qua các tổ chức công đoàn thuyết
phục người lao động và chủ doanh nghiệp chấp nhận một mức cắt giảm trong tiền
lương để duy trì số công ăn việc làm trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp
này cũng lại chỉ được áp dụng được ở những nơi có tổ chức công đoàn và vẫn còn
hoạt động.
+ Đào tạo nghề cho bà con ở nông thôn đặc
biệt là con cái của họ, khi diện tích đất sản xuất của họ bị thu hồi thì có thể
dể dàng chuyển sang làm những ngành nghề khác.
+ Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động
là nơi mà không những giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở trong nước mà
còn thu được nguồn ngoại tệ không nhỏ cho quốc gia.
+ Hạn chế tăng dân số.
KẾT
LUẬN
Thất nghiệp luôn là mối quan tâm của toàn xã
hội. Hầu hết các quốc gia đều cố gắng xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, cải thiện việc làm và giảm tỷ lệ
thất nghiệp. Thất nghiệp cũng là mối lo của mọi người dân lao động, bởi vì nó gắn
liền với đời sống vật chất và tinh thần của họ. Chính vì vậy Chính phủ phải có
những biện pháp thiết thực để hạn chế tình hình thất nghiệp cũng như cải thiện
đời sống của người lao động.
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường
Đại Học luật Hà Nội, giáo trình “Kinh tế học đại cương”. Nhà xuất bản công an
nhân dân, Hà Nội 2002, tr.269-276.
Các
website:
http://kientrucsaigon.net/KINH-TE/GT-KINH-TE-VI-MO/C7/CHUONG-VII-THAT-NGHIEP-VA-LAM-PHAT.html
http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A5t_nghi%E1%BB%87p
http://www.baomoi.com/Ty-le-that-nghiep-2012-chi-o-muc-199-do-lao-dong-thoi-vu-tang/47/10042182.epi
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/1-trieu-nguoi-viet-nam-dang-that-nghiep-675426.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét