PHẦN
I:LỜI MỞ ĐẦU
Từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn luôn
khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức,
phương pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam đã trân trọng
ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) một lần nữa khẳng định lại
điều này. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bước phát triển mới trong nhận thức
và tư duy lý luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch sử,
đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta, tình cảm nguyện vọng
của toàn Đảng toàn quân, toàn dân ta.
Hồ
Chí Minh đã qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới
và thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc
địa để từ đó vạch ra con đường giải phóng phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Năm
1930, Người đọc “Sơ thảo…” Lênin làm cho Người sáng tỏ … Người biểu quyết tná
thành gia nhập quốc tế Cộng sản, đánh dấu…Sau đó, Người đã tham gia hoạt động
lý luận và thuyết diễn cực kỳ sôi nổi trong Đảng Cộng sản Pháp và quốc tế Cộng
sản.
Cuối
1924, đến Quảng Châu – Trung Quốc, sáng lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện cán bộ… Trong thời gian này, Người
cho xuất bản các tác phẩm “Bản…”, và tác phẩm “Đường Cách mạng”. Tháng 2/30, tại
Hội nghị hợp nhất, Người trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt… những văn kiện này đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam.
PHẦN II: NỘI DUNG
“TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC”.
1. Cách mạng giải phóng
dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản.
Nguyễn
Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước trong hoàn cảnh phong trào yêu nước Việt Nam đang
khủng hoảng sâu sắc về đường lối.Sự xâm lược và thống trị của thực dân Pháp
không những làm cho dân tộc ta mất độc lập, mà còn kìm hãm đất nước ta trong
vòng lạc hậu. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp càng trở nên gay
gắt . Đánh đuổi thực dân Pháp dành lại độc lập cho nước nhà là một đòi hỏi bức
thiết của dân tộc ta.
Ngay
từ khi Thực dân Pháp xâm lược nước ta, tuy phong trào yêu nước đã diễn ra mạnh
mẽ:(phong trào chống Pháp ở Nam kỳ, phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ, Trung kỳ,
phong trào Yên Thế ởBắc kỳ) nhưng đều không giành được thắng lợi. Nguyên nhân
chủ yếu là chưa có một lực lượng có đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc đến thành công. Chưa có một đường lối lãnh đạophù hợp với thời đại
mớ: thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản.
Sự
nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Vấn đề đặt ra lúc này là phải tìm được con đường cứu nước khác với con đường
phong kiến và con đường dân chủ tư sản. Đó là một đòi hỏi tất yếu của cách mạng
Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Con
đường cứu nước do Nguyễn Ái Quốc lựa chọn là con đường cứu nước đúng đắn phù hợp
với yêucầu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Ngày
5/6/l911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước cho dân tộc. Người sang
Pháp, hướngvề nơi có tư tưởng "Tự do, bình đẳng, Bác Ái" tiến bộ, có
nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Người đi nhiềunước ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ..
người muốn xem xét họ làm thế nào để trở về giúp đồng bào cứunước.
Trong
thời gian sống và làm việc ở nước ngoài người đã tham gia vào các hoạt động
chính trị vàphong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và lao động các nước,
được tiếp xúc với các sự kiện lịch sử quan trọng.
Qua
thực tiễn đấu tranh, qua nghiên cứu lý luận Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức được
những chânlý về giai cấp, dân tộc, và thời đại. Người thấy rõ chủ nghĩa đế quốc
và chủ nghĩa thực dân là nguồn gốccủa mọi đau khổ của giai cấp công nhân và
nông dân thuộc địa cũng như ở chính quốc.
Người
khâm phục cách mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng tư sản Pháp
(1776)cách mạng tư sản Mỹ (1789) nhưng người cho rằng những cuộc cách mạng đó
là những cuộc cáchmạng không đến nơi. Người chỉ rõ cách mạnh Việt Nam không thể
đi theo con đường cách mạng nàyđược. Người vạch rõ bản chất của cách mạng tư sản:
trong thì tước lục công nông ngoài thì áp bứcthuộc địa. Người quan điểm: Chúng
ta đã hy sinh để làm cách mạng thì phải làm cách mạng cho đến nơitức là quyền lực
thuộc về số đông nhân dân, … thế mới khỏi phải hy sinh nhiều lần thì dân chúng
mớiđược hạnh phúc.
Cách
mạng tháng 10 thắng lợi là một sự kiện quan trọng, mở ra một thời đại mới thời
đại quá độ từchủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng
tháng 10 có ý nghĩa quyết định đến sựphát triển tư tưởng chính trị của Nguyễn
Ái Quốc. Người đã tìm ra ở đó những tư tưởng mới mở ra conđường giải phóng cho
dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Tháng
7- 1920 Bản " Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa" của V.I.Lênin đến với Nguyễn Ái Quốc. Bản đề cương đó chỉ cho
Người và cho cả đồng bào bị đạo đày đaukhổ của Người cái cần thiết nhất là con
đường tự giải phóng, con đường giành độc lập cho Tổ Quốc, tựdo cho đồng bào.
Người nói rằng " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khácngoài con đường cách mạng vô sản.
Như
vậy trải qua môt cuộc hành trình đầy gian khổ, qua nhiều đại dương và lục địa,
cuộc khảo sátvô cùng phong phú đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc một tình cảm cách
mạng sâu sắc, một lựa chọn đúngđắn con đưòng cứu nước, con đường cách mạng của
Lênin. Từ đây người đã dứt khoát đi theo conđường đó.
Đó là con đường giải phóng dân tộc theo chủ
nghĩa Mác lêni, kết hợp giải phóng dân tộc với giảiphóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và giải phóng toàn bộ xã hội. Là con đường cứu nướcđúng đắn
nhất vì đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc
Việt Namvà phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử thời đại
Thất
bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư
tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan
là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục
tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con đường cứu
nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
Tháng
7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ và cảm động".
Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta"1. Người đã tìm thấy trong lý luận của V.I. Lênin một con
đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.
Đầu
năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le Paria), Người viết:
"Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no
trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh
phúc...".
Như
vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết
tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Từ thắng lợi của CM
Tháng 10 Nga do Đảng CS lãnh đạo, người khẳng định: CM giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi, trước hết phải có Đảng lãnh đạo, không có Đảng chân chính lãnh đạo
CM không thể thắng lợi. Đảng có vững CM mới thành công, người cầm lái có vững
thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có CN làm cốt. Không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, không có kim chỉ nam. Đảng phải xác định rõ mục
tiêu, lý tưởng CNCS, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng theo học
thuyết Đảng kiểu mới của Lê Nin.Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật
nghiêm minh và liên hệ mật thiết với quần chúng.
2. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
bao gồm toàn dân tộc.
Theo
Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc một hai người". Người phân tích: "dân tộc cách mệnh
chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền". Trong lực lượng đó, công nông "là gốc cách mệnh",
"là người chủ cách mệnh"; "còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là
bầu bạn cách mệnh của công nông thôi".Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò
của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi. Trong tác phẩm
Đường Kách mệnh, Người phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm
phương thức hành động. Người khẳng định: "Dân khí mạnh thì quân lính nào,
súng ống nào cũng không chống lại".
Trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng bao
gồm toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại
bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách
mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản
giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, chí ít là làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Chủ
trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
của Người. Trong Bài ca du kích (1942), Người chủ trương mọi người già, trẻ,
gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân (ngày 22-12-1944), Người viết: "Cuộc
kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn
dân, vũ trang toàn dân".
Trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh lấy
nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc" xuyên suốt
quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu
nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: "Địch chiếm trời, địch
chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân
dân ta".
Khi
phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng 12-1946), Người
kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay: "Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước".
Kêu
gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: Chống Mỹ, cứu
nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước. "Cuộc
kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân".
"31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31
triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối
cùng". Ngày 9-4-1965, trả lời phóng viên báo Acahata (Nhật Bản) Hồ Chí
Minh khẳng định, trong thời đại chúng ta, một dân tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu
tranh kiên quyết, hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế quốc xâm lược hung hãn, gian
ác và có nhiều vũ khí.
Xuất
phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí Minh
không chủ trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào lực lượng
quân đội và tiến hành một số trận quyết tử với kẻ thù, mà chủ trương phát động
chiến tranh nhân dân. Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện. Lực
lượng toàn dân là điều kiện để đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải
phóng dân tộc. Hồ Chí Minh nói: "Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi
mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được". Trong chiến tranh,
"quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với
đấu tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị,
thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn.
Đấu
tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn
bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ quốc
tế. Hồ Chí Minh chủ trương: "vừa đánh vừa đàm", "đánh là chủ yếu,
đàm là hỗ trợ".
Đấu
tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh
tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi "hậu phương thi đua với
tiền phương", coi "ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà
nông là chiến sĩ", "tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát
triển sản xuất để phục vụ kháng chiến"."Chiến tranh về mặt văn hóa
hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng".
Mục
đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho khả năng
tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác
tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ
cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi,
đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt
Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc.
Trong
phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Đề cương về
phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại
hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: Chỉ có thể thực hiện hoàn
toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi
ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này, vô hình chung đã làm giảm tính chủ
động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Theo
Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình
đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ. Năm 1925, Hồ
Chí Minh viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các
thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ
mọc ra"
Nhân
dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, khối
liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Người khẳng định vai
trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: "Vận mệnh của giai cấp vô
sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược
thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa... nọc độc
và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn
là ở chính quốc", nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là "muốn
đánh chết rắn đằng đuôi". Vận dụng công thức của C.Mác: sự giải phóng của
giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân, Người đưa
ra luận điểm: "Công cuộc giải phóng anh em, (tức nhân dân thuộc địa - TG)
chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".
Do
nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá
đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Người viết: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức
thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không
đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn".
Trong
tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm vụ của cách mạng
vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ cách mạng đó tuy có
khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu ví dụ: "An Nam
dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông
Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp làm cách mệnh thành
công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do".
Đây
là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến
rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
4. CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng
con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng
nhân dân.
a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân
tộc ở Việt Nam
Theo
CN Mác Lê Nin, có nhiều phương pháp giành chính quyền từ tay giai cấp thống trị.
Những kẻ thù không bao giờ tự nguyện giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy CM
muốn thắng lợi phải dùng bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền. Hồ
Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, CN thực dân dùng bạo lực phản CM đàn
áp các phong trào yêu nước. CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng
bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM. Bạo lực phản CM là bạo lực của quần chúng
gồm lực lượng "chính trị" của quần chúng và lực lượng "vũ
trang" với 2 hình thức đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau. Để
giành chính quyền phải bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần
chúng. Trong thời đại mới, thời đại CM vô sản thì cuộc khởi nghĩa vũ trang phải
có sự ủng hộ của CM vô sản thế giới, CM Nga, thậm chí với CM vô sản Pháp.
Ngay
từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập
khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa
vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích
vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực dân
Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất
bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
Tháng
5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách
mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường cho một cuộc
tổng khởi nghĩa to lớn.
Để
chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ
đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính
trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp
thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành
được chính quyền trong cả nước.
Tóm
lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về
cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường
lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa.Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp
đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người.
b) Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng
giải phóng dân tộc.
Trước
những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược
đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: "Địch muốn
tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định
thua, ta nhất định thắng"1, "Trường kỳ kháng chiến... nhất định thắng
lợi"2. Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo,
ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân. Theo
Người, họa thực dân cũng như một chứng bệnh trầm trọng.
Muốn
chữa bệnh ấy, ta phải thật gan dạ để chịu đau đớn khi mổ xẻ, phải có đủ thời giờ
để bồi dưỡng lại sức, kết quả nhất định tẩy trừ được bệnh ấy. Công cuộc kháng
chiến cũng như vậy. Người phân tích: "Với binh nhiều, tướng đủ, khí giới tối
tân, chúng định đánh mau thắng mau. Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô
sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến... thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với
nhau".
Trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố,
xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì
quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước
ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!.
Tự
lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy
cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ
bên ngoài. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người chỉ rõ: muốn người ta giúp cho
thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã. Tháng Tám (1945) khi thời cơ tổng
khởi nghĩa xuất hiện, Hồ Chí Minh kêu gọi Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Tại
Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (tháng 6-1952), Người nói, muốn thắng
lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Mặc dù rất
coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong,
phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự
chủ. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực
cánh sinh. Trông vào sức mình... Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan
trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác".
Độc
lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một
quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức
vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và
tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng
lợi.
PHẦN
III:KẾT LUẬN
Tư
tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc. Là hệ thống các quan điểm về con đường
cứu nước, về tổ chức lực lượng, chiến lược, sách lược và những nhân tố bảo đảm
thắng lợi của CM giải phóng dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa khỏi chủ
nghĩa thực dân đế quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh,... Đây là đóng góp xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh vào kho
tàng lý luận Mác Lê Nin... Vì vậy được suy tôn là anh hùng giải phóng dân tộc.Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
trong công cuộc đổi mới hiện nay đó chính là:
Khơi dậy sức mạnh của
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và
bảo vệ đất nước: Trong sự nghiệp đổi mới, càng phải
xác định rõ các nguồn lực và phải phát huy tối đa các nguồn nội lực (bao gồm
con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài
nguyên, vốn liếng...), trong đó yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là
nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó; Con người
Việt Nam vốn có nhiều truyền thống tốt đẹp. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy cần được tiếp tục khơi dậy
mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi
nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên.
Nhận thức và giải quyết
vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp:
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong mối quan hệ thống
nhất biện chứng. Trong khi rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước, thì Người cũng luôn luôn đứng vững trên quan điểm giai cấp để
nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc; Mục tiêu của cách mạng do Hồ Chí Minh
và Đảng ta nêu lên thể hiện kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Nó chứng
tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân mới là lực lượng đại
biểu trung thành cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận đại đoàn kết
dân tộc để thực hiện được mục tiêu trên; Vì vậy, đi đôi với tăng cường giáo dục
chủ nghĩa Mác-Lênin, cần làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và
giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội được quán triệt sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, lấy đó làm định hướng
cho việc nhận thức và giải quyết các vấn đề của dân tộc và của thời đại hiện
nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét