A – MỞ ĐẦU
Môi trường – điều kiện sống của con
người đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng do các hành vi xả thải chất thải chưa
qua xử lí của một bộ phận không nhỏ các công ty, doanh nghiệp hiện nay tại Việt
Nam. Vấn đề bảo vệ môi trường đã trở nên cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết
bởi ô nhiễm môi trường đang từng ngày đe dọa cuộc sống, tính mạng của đại đa số
dân cư sinh sống gần các khu vực có chất lượng môi trường không đạt tiêu chuẩn.
Trước tình hình đó, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường đã được pháp luật ghi nhận lần
đầu tiên tại Luật Bảo vệ môi trường (Luật BVMT) năm 1993, theo đó “tổ chức, cá
nhân gây tổn hại môi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật”. Trách nhiệm này được phát triển hơn thông qua các
quy định tại BLDS 2005 và LBVMT 2005. Để hiểu rõ về vấn đề này, em chọn đề 12: “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường”.
B – NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Khái niệm ô nhiễm môi trường
“Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường,
vi phạm tiêu chuẩn môi trường, thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các thành phần
và đặc tính vật lý, hóa học, nhiệt độ, sinh học, chất hòa tan, chất phóng xạ… ở
bất kỳ thành phần nào của môi trường hay toàn bộ môi trường vượt quá mức cho
phép đã được xác định”.
2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
hình thành giữa các chủ thể bất kì mà trong đó người có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là quy định của
pháp luật dân sự, xác định người có hành vi xâm phạm đến tài sản, sức khỏe,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
các chủ thể khác và gây ra thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do
mình gây ra”.
Ý nghĩa của việc xác định thiệt hại ngoài hợp đồng: việc xác
định trách nhiệm thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm khắc phục những hậu quả về tài sản,
phục hồi lại tình trạng về tài sản của người bị thiệt hại trong phạm vi, khả
năng nhất định, qua đó nhằm đảm bảo lợi ích của người bị thiệt hại. Ngoài ra,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không những đảm bảo việc đền bù
tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục cho mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, bảo
vệ tài sản, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
3.
Thiệt hại trong lĩnh vực môi trường
Thiệt
hại trong lĩnh vực môi trường là nói đến hai loại thiệt hại: một là sự suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường, loại thiệt hại này thường gắn liền với
chủ thể bị thiệt hại là nhà nước, người
đại diện có lợi ích chung của cộng đồng. Hai là, thiệt hại về tài sản, sức khỏe,
tính mạng, thiệt hại này thường gắn liền với chủ thể là cá nhân, tổ chức cụ thể.
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là hậu quả pháp lí bất lợi
mà các tổ chức, cá nhân phải gánh chịu khi có hành vi làm tổn hại môi trường,
gây thiệt hại cho nhà nước cũng như các
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác.
II. Chủ thể tham
gia quan hệ bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
1. Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trong chương
XXI – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, pháp luật có quy định về
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân ( điều 606 – BLDS ).
Việc xác định ai là người phải bồi thường thiệt hại trong các trường hợp khác
nhau: cá nhân đó là người đã thành niên, người chưa thành niên hay người mất
năng lực hành vi dân sự. Pháp luật quy định chủ thể có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là căn cứ để bảo vệ lợi ích của người bị thiệt hại hoặc nhân thân của
người bị thiệt hại để có căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại. Qua đó, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật. Như vậy, việc bồi thường thiệt hại phải do người
có khả năng bồi thường, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ
thực hiện. Tuy nhiên, BLDS chỉ quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân mà không quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể khác.
Do đó, các chủ thể khác đương nhiên được coi là người có năng lực bồi thường
thiệt hại.
Năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được quy định tại điều 606 – BLDS
và được hướng dẫn tại tiểu mục 3, mục I, Nghị quyết 03/2006/HĐTP – TANDTC ngày
8 – 7 – 2006 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao dựa trên mức độ
năng lực hành vi, tình trạng tài sản, khả năng bồi thường của cá nhân và xác định
cá nhân gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại
theo mức độ năng lực hành vi dân sự khác nhau. Mặt khác, căn cứ vào điều 624
BLDS 2005: “ Cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi”.
Và khoản 2, điều 13 NĐ 113/2010 quy định: “
Tổ chức, cá nhân làm ô nhiễm môi trường, suy thoái phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại đối với môi trường do mình gây ra, đồng thời phải chi trả toàn bộ chi phí
xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại cho cơ
quan đã ứng trước kinh phí theo quy định tại khoản 2 điều 9 Nghị định này”. Như
vậy, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường gồm
hai chủ thể là: cá nhân và tổ chức, cụ thể:
Một là, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường của cá nhân được
chia thành:
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đầy đủ phải
tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra.
+ Người dưới 18 tuổi là những người không có hoặc không đầy đủ
năng lực hành vi, do đó cha mẹ là người bồi thường thiệt hại do con em họ gây
ra. Tuy nhiên, đối với người dưới 15 tuổi thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình
để bồi thường, nếu cha mẹ bồi thường không đủ, con có tài sản riêng thì lấy tài
sản của con để bồi thường. Đối với người từ 15 đến 18 tuổi thì lấy tài sản của
con để bồi thường, cha mẹ chịu trách nhiệm bổ sung phần còn thiếu.
+ Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây
thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lí trường học, bệnh viện
phải bồi thường. Nếu các tổ chức trên không có lỗi thì cha, mẹ, người giám hộ
phải bồi thường.
Hai là, tổ chức gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là các doanh
nghiệp, công ty hoạt động sản xuất kinh doanh không có thiết bị xử lí chất thải
hoặc công suất không đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất,…dẫn đến ô nhiễm môi trường.
Trong thực tế việc xác định chủ thể phải bồi thường thiệt hại
là rất khó khăn vì không chỉ một cá nhân mà có thể là nhiều cá nhân, không phải
một tổ chức mà có thể có 2, 3 tổ chức cùng gây ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy,
pháp luật quy định: “ Trong trường hợp
nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho
người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được
xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ
lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau” ( điều 616 – BLDS
2005 ).
2. Chủ thể có quyền đòi bồi thường thiệt hại
Chủ thể có quyền đòi bồi thường thiệt hại được chia thành 2
nhóm:
Nhóm 1 là: những người bị tổn hại về sức khỏe hoặc là người
có quyền sở hữu đối với khối tài sản bị thiệt hại. Người bị tổn hại về sức khỏe
hoặc nhân thân của người chết có quyền
đòi bồi thường thiệt hại.
Nhóm 2 là: căn cứ vào điều 17 Hiến pháp 1992 “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần
vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành
và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc
phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều
thuộc sở hữu toàn dân”, Nhà nước tổ chức việc quản lí sử dụng dưới hai hình thức:
Thông qua hệ thống các
cơ quan quản lí trực tiếp quản lí và thực hiện giao quyền sử dụng cho tổ chức,
cá nhân hoặc tổ chức, cá nhân thuê quyền sử dụng đất. Do đó, cần xác định ai là
đối tượng có quyền đòi bồi thường thiệt hại cần được xác định:
+ Một là, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu là cơ quan trực tiếp
quản lí, là đối tượng có quyền đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp thành
phần môi trường không được nhà nước giao hoặc cho thuê quyền sử dụng đất.
+ Hai là, thành phần môi trường đã được nhà nước giao cho tổ
chức, cá nhân hoặc tổ chức, cá nhân thuê quyền sử dụng đất thì tổ chức, cá nhân
đó là đối tượng có quyền đòi bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp các đối tượng
này không thực hiện quyền của mình thì nhà nước là người có quyền đòi bồi thường
thiệt hại về môi trường.
Việc xác định chủ thể có quyền đòi bồi thường thiệt hại có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trên thực tế bởi đây là điều kiện tiền đề xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên, từ đó xác định cơ chế đền bù thiệt hại phù hợp.
III. Điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Căn cứ vào BLDS 2005 và Nghị quyết số 03/2006/ HĐTP – TANDTC
ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại.
1. Có thiệt hại xảy ra
Trong quan hệ bồi thường thiệt hại, thiệt hại và là điều kiện
phát sinh trách nhiệm, vừa là cơ sở tính mức bồi thường. Thiệt hại xảy ra là tiền
đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của việc áp dụng trách nhiệm
là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại. Do đó, việc xác định có
thiệt hại xảy ra hay không, thiệt hại bao nhiêu là rất quan trọng. Vì thiệt hại
là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, không có thiệt hại thì không phải bồi thường cho dù có đầy đủ các điều kiện
khác.
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra không chỉ thiệt hại về
về tài sản, sức khỏe và tính mạng con người mà còn gây tổn hại nghiêm trọng đến
môi trường, mất cân bằng sinh thái, suy giảm đa dạng sinh học và cạn kiệt các
nguồn tài nguyên thiên nhiên,…Căn cứ vào các thiệt hại trên, thiệt hại do ô nhiễm
môi trường bởi các tổ chức, cá nhân gây ra được chia thành hai nhóm, cụ thể;
Nhóm thứ nhất: thiệt hại được tính thành tiền. Việc xác định
thiệt hại là điều kiện mang tính chất tiền đề
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thiệt hại ở đây là
những tổn thất thực tế được tính thành tiền do xâm phạm đến tài sản, tính mạng,
sức khỏe của cá nhân, tổ chức, gồm:
+ Thiệt hại về tài sản: ô nhiễm môi trường làm cho tài sản bị
hủy hoại, hư hỏng, thiệt hại gắn liền với việc bị thu hẹp, mất dần những lợi
ích gắn liền với việc không sử dụng, không khai thác hoặc làm hạn chế việc sử dụng,
khai thác tài sản…chẳng hạn, việc làm ô nhiễm môi trường của công ty A làm cho
hoa màu, cây công nghiệp lâu năm của xã B bị chết. Như vậy, nó đã làm hạn chế
việc sử dụng cũng như khai thác các loại cây rau màu ngắn ngày hay cây công
nghiệp lâu năm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, kinh tế của người dân xã B.
+ Thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại: bao gồm các chi phí cho
việc chăm sóc, viện phí trong quá trình điều trị bệnh tại bệnh viện, chi phí
cho tiền thuốc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế bị mất, bị gảm sút
do thiệt hại về sức khỏe…và các khoản khác khi một cá nhân bị thiệt hại về sức
khỏe do môi trường bị ô nhiễm gây ra như các bệnh ung thư, bệnh về đường hô hấp,…
+ Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại: Bao gồm các chi phí chăm
sóc, viện phí trong quá trình điều trị bệnh tại bệnh viện, chi phí thuốc, chi phí
an táng, cứu chữa, bồi thường cho người thân của người đã chết….
Nhóm thứ hai, là thiệt hại đến môi trường tự nhiên làm suy giảm
suy giảm đa dạng sinh học và cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mất cân
bằng sinh thái thì cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường có trách nhiệm phải
khôi phục môi trường, đưa môi trường về tình trạng ban đầu.
2. Hành vi gây ô nhiễm môi trường là hành
vi trái pháp luật.
Hành vi làm ô nhiễm môi trường luôn được coi là vi phạm pháp
luật do chủ thể có năng lực chủ thể thực
hiện. Nếu là tổ chức phải có tư cách pháp nhân, nếu là cá nhân phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Hành vi làm ô nhiễm môi trường có thể được thể
hiện dưới dạng hành động hay không hành động.
+ Dưới dạng hành động là: hành vi xả thải chất thải chưa xử lí ra môi trường, xả rác bừa bãi
không đúng nơi quy định,…
+ Dưới dạng không hành động là: không tuân thủ quy trình xử
lí rác thải, không xây dựng hệ thống xử lí rác thải…
Hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra thiệt hại, những thiệt
hại này được gây ra bởi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật môi trường
và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, chỉ
khi nào hành vi gây ô nhiễm môi trường đó gây ra thiệt hại trên thực tế: làm
suy giảm môi trường sinh thái, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây thiệt
hại về tài sản, sứa khỏe, tính mạng cho tổ chức, cá nhân khác thì trách nhiệm bồi
thường mới phát sinh.
3. Người làm ô nhiễm môi trường có lỗi
Người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có
lỗi. Điều 604 – BLDS quy định: “ Người
nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định người phải bồi thường và có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định mức bồi thường. Lỗi được chia ra làm lỗi cố
ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý là: trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
+ Lỗi vô ý: là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải
biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây
ra thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
4. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây
ô nhiễm môi trường và thiệt hại xảy ra
Xác định mối
quan hệ nhân quả đó trong trường hợp:
+ Hành vi gây
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc đó là
nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến thiệt hại trên. Hay nói cách khác, thiệt
hại xảy ra do làm ô nhiễm môi trường là kết quả tất yếu của hành vi gây ra thiệt
hại.
+ Mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi gây ra thiệt hại với thiệt hại xảy ra trong lĩnh vực môi
trường khó có thể xác định chính xác là do thiệt hại xảy ra tức thời hay không,
hay nó xảy ra từ từ trong một khoảng thời gian dài. Qua đó, việc xác định thiệt
hại phải trải qua nhiều bước gồm: xác định mối quan hệ giữa hành vi VPPL môi
trường và tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường và xác định mối quan hệ giữa
ô nhiễm suy thoái môi trường với những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản
của cá nhân.
IV. Cơ chế giải
quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường
1. Xác định thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường
Thiệt hại trong lĩnh vực môi trường được chia làm hai loại
là:
+ Thứ
nhất, thiệt hại đối với môi trường tự nhiên. Đó là sự suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường, trong đó chức năng, tính hữu ích của môi trường được thể
hiện qua các phương diện chính là: Môi trường chính là không gian sinh tồn của con người; và môi
trường là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, đồng
thời, môi trường là nơi chứa đựng và tiêu hủy chất thải do con người thải ra
trong các hoạt động của mình. Như vậy, có thể hiểu sự suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường xảy ra khi: chất lượng của các yếu tố môi trường thấp
hơn so với tiêu chuẩn về chất lượng môi trường; lượng tài nguyên thiên nhiên bị
khai thác, sử dụng lớn hơn lượng được khôi phục; lượng chất thải thải vào môi
trường lớn hơn khả năng tự phân hủy, tự làm sạch của chúng.
+
Thứ hai, thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích
của môi trường gây ra. “ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của con người được thể
hiện qua các chi phí để cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi các chức năng bị
mất của người bị hại và các khoản thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do bị
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có nguyên nhân từ ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Thiệt hại về tài sản được thể hiện qua những tổn thất về cây trồng, vật nuôi,
những khoản chi phí cho việc sửa chữa, thay thế, ngăn chặn và phục hồi tài sản
bị thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên. Còn thiệt hại đến lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thể hiện qua sự tổn hại về lợi ích vật
chất, sự giảm sút về thu nhập chính đáng mà nguyên nhân là do sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường”.
2. Căn cứ xác định thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường
-
Căn cứ vào mức độ chức năng, tính hữu ích của môi trường bị suy giảm ( khoản 1,
điều 121 – Luật bảo vệ môi trường ) chia thành:
+
Mức độ ô nhiễm môi trường gồm 3 mức độ: ô nhiễm môi trường, ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Điều 92- LBVMT quy định:
1. Môi trường bị ô nhiễm trong trường hợp hàm lượng một
hoặc nhiều chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường.
2. Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng khi hàm lượng của một
hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường
từ 3 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm khác vượt
quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên.
3. Môi trường bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng khi hàm
lượng của một hoặc nhiều hoá chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất
lượng môi trường từ 5 lần trở lên hoặc hàm lượng của một hoặc nhiều chất gây ô
nhiễm khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 10 lần trở lên.
+ Mức độ suy thoái môi
trường gồm 3 mức độ dựa trên cơ sở số lượng thành phần môi trường khai thác, sử
dụng so với trữ lượng thiên nhiên sẵn có của nó là: suy thoái môi trường, suy
thoái môi trường nghiêm trọng, suy thoái môi trường đặc biệt nghiêm trọng.
-
Căn cứ vào phạm vi, giới hạn vùng ô nhiễm bị suy giảm chức năng, tính hữu ích
quy định tại khoản 2, điều 131- LBVMT gồm có: Xác định giới hạn, diện tích của
khu vực, vùng lõi bị suy giảm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; xác định
giới hạn, diện tích vùng đệm trực tiếp bị suy giảm và xác định giới hạn, diện
tích các vùng khác bị ảnh hưởng từ vùng lõi và vùng đệm.
-
Xác định thành phần môi trường bị suy giảm căn cứ vào khoản 3, điều 131 –
LBVMT: Xác định số lượng thành phần môi
trường bị suy giảm, loại hình hệ sinh thái, giống loài bị thiệt hại và mức độ
thiệt hại của từng thành phần môi trường, hệ sinh thái, giống loài.
V. Thực trạng về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Thực trạng xả thải trái phép gây ô nhiễm môi
trường, tại tỉnh Hòa Bình, Công ty cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn ( Hòa
Bình ) và các doanh nghiệp sản xuất đã đóng trên địa bàn hoạt động đã xả khói,
bụi ra môi trường xung quanh. Hậu quả là chè và các cây trồng khác xung quanh
khu vực này đều không phát triển được, năng suất sụt giảm, thậm chí mất trắng
trong khi thu nhập của người dân nơi đây chủ yếu là làm vườn. Bên cạnh đó, người
dân sống xung quanh còn cảm thấy ngột ngạt, khó chịu khi nhà máy trên hoạt động
và họ đã tiến hành khiếu nại. Công ty xi măng Vinaconex Lương Sơn đã thừa nhận
hành vi gây ô nhiễm môi trường của mình và những thiệt hại gây ra do hành vi
làm ô nhiễm môi trường. Công ty đã chấp nhận chi trả 631 triệu đồng trong 2 năm
2005 – 2006 trong việc xác định giá trị thiệt hại. Tuy nhiên, theo ý kiến của
người dân sống quanh khu vực này, họ cho rằng: việc đền bù chỉ là việc nhẹ và
là giải pháp trước mắt không có tính lâu dài mà việc quan trọng công ty trên phải
làm là đưa ra những giải pháp làm thay đổi, giảm ô nhiễm môi trường.
Không
chỉ có công ty xi măng Vinaconex gây ô nhiễm môi trường mà trên địa bàn tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu, nhà máy Cao su Xà Bang ( thuộc công ty cao su Bà Rịa ) đã có
hành vi gây ô nhiễm môi trường kéo dài trong nhiều năm liền. Từ năm 1998, trung
bình mỗi ngày nhà máy thải ra môi trường khoảng 1000m3 nước thải/
ngày đêm, làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước sinh hoạt của người dân trong
vùng. Do đó, người dân trong vùng đã tiến hành khiếu nại. Trước hành vi gây ô
nhiễm môi trường và việc người dân khiếu nại, công ty đã chủ động đàm phán và
thỏa thuận đối với các hộ dân bị thiệt hại và đồng ý việc bồi thường thiệt hại
với tổng giá trị là 500 triệu đồng. Đồng thời, để góp phần giảm thiểu tình trạng
gây ô nhiễm môi trường như thời gian trước đó nhà máy đã đầu tư 10 tỉ đồng để
thay đổi công nghệ, một mặt nâng cao năng suất trong quá trình sản xuất, mặt
khác nhằm giảm thiết tối đa nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Đây là một giải
pháp, hành động hữu hiệu đem lại hiệu quả cao nhất cho quá trình làm sạch, hạn
chế các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong thời gian tới mà không phải cô ty
nào cũng tự giác thực hiện.
Trong
2 năm 2006 – 2008 nhà máy cồn Xuân Lộc đã xả nước thải chưa qua xử lí gây thiệt
hại nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp tại xã Xuân Tâm. Sau quá trình chứng
minh thiệt hại, nhà máy đã chấp nhận bồi thường cho 4 hộ dân bị thiệt hại với số tiền 47 850 000 đồng,
ngoài ra còn nhiều hộ dân khác đang khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tại
Nghệ An nhà máy sản xuất bao bì Sabeco – Sông Lam ( Khu công nghiệp Bắc Vinh,
TP Vinh , Nghệ An) thường xuyên xả thải chưa qua xử lí ra ngoài gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống, sản xuất của dân cư. Ngày
1-5-2011, 70 người dân xã Đông Hưng đã tiến hành đào đất lấp miệng cống xả của
đơn vị này.
* Vụ án Vedan - sông Thị Vải ô nhiễm - vụ
án điển hình nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Với
hành vi xả thải chất thải chưa qua xử lí trực tiếp ra môi trường, công ty Vedan
đã làm ô nhiễm sông Thị Vải, khoảng 2km chỗ khu vực công nghiệp Mỹ Xuân đã bị ô
nhiễm đặc biệt nghiêm trọng. Theo cách gọi của người dân nơi đây, sông Thị Vải
được gọi là “ con sông chết”. Nước
sông bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng và các chất độc hại kim loại nặng. Giá trị
DO thường xuyên dưới 0,5mg/l ( giá trị thấp nhất tại khu vực cảng Vedan là
0,04mg/l ). Thông số N-NH4+ cũng vượt quá tiêu chuẩn Việt
Nam cho phép ( loại B ) 5942 – 1995 từ 3 đến 15 lần, giá trị Comlifrom vượt
tiêu chuẩn Việt Nam. Khi lấy mẫu nước sông Thị Vải do tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thực
hiện phát hiện có sự hiện diện của chì, cadimi và đều vượt tiêu chuẩn cho phép.
Cuối năm 2006, cơ quan chuyên môn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đưa ra kết luận: “
Sông Thị Vải ô nhiễm chì nặng và rất nặng” vượt tiêu chuẩn cho phép 4 đến 5 lần.
Theo kết quả khảo sát của Viện Môi
trường và Tài nguyên TP HCM cho thấy, mức độ ô nhiễm sông Thị Vải do Công ty
Vedan gây ra chiếm 80-90%. Đầu tháng 9/2008,
Công ty bột ngọt Vedan bị bắt quả tang xả nước thải không qua xử lý, thẳng ra
sông Thị Vải với lưu lượng 44.800 m3/ tháng. Nước sông tại các vùng này bị ô nhiễm nặng nề, nước có màu đen
hôi, cá chết hàng loạt ( gần 2.700 ha nuôi trồng thủy sản của khu vực này bị
thiệt hại. Tỉnh Đồng Nai có hơn 2.100 ha nuôi trồng thủy sản bị tàn phá bởi nước
ô nhiễm, còn TP HCM và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng bị ảnh hưởng gần 600 ha). Chính vì vậy,
con sông nhiều tôm cá, do nước thải chưa qua xử lí từ công ty Vedan chảy vào
các đầm, ao làm chết cá, tôm, sú của dân nuôi, thất bát công việc, nhiều gia
đình trắng tay. Hiện
công ty
Vedan đã nộp khoản tiền phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường trên 267
triệu đồng, đồng thời đã nộp phí truy thu bảo vệ môi trường trốn nộp là gần 80
tỷ đồng. Số còn lại gần 48 tỷ đồng được nộp vào quý 3 và 4 năm 2009 như đã cam
kết trước đó[8].
Số liệu trên mới chỉ đại diện cho một
trong số rất nhiều vụ việc được đưa ra giải quyết, ngoài ra còn rất nhiều tổ chức
VPPL về môi trường nhưng chưa bị phát hiện và đưa ra giải quyết buộc họ phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường về hành vi vi phạm của mình. Qua thực tế trên cho thấy,
tình hình ô nhiễm môi trường hiện nay ở Việt Nam đang trở nên cấp bách mà
nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu ý thức của các công ty, doanh nghiệp vì cái
lợi trước mắt mà dang dần tiếp tay hủy hoại môi trường.
* Nhận xét tình hình đồi bồi
thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường
Qua
các số liệu trên về thực trạng bồi thường do làm ô nhiễm môi trường của các
công ty, doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua ta có thấy hầu hết các vụ
kiện đòi bồi thường thiệt hại diễn ra trên phạm vi nhỏ của một xã, phường, thị
trấn ( trừ vụ hành vi gây ô nhiễm và vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại của công
ty Vedan về hành vi xả nước thải gây ô nhiễm sông Thị Vải trong nhiều năm). Như
đã cam kết về hành vi vi phạm pháp luật của mình công ty Vedan đã chấp nhận việc
bồi thường thiệt hại cho 3 địa phương quanh khu vực sông Thị Vải là
: Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết các vụ kiện do
làm ô nhiễm môi trường đều liên quan đến thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng,
còn thiệt hại do môi trường sinh thái
suy giảm, giảm đa dạng sinh học, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên chưa thấy đưa ra. Tại điều 130 – Luật bảo vệ môi trường quy định cụ thể các loại thiệt hại làm ô nhiễm
môi trường không chỉ về tài sản, tính mạng, sức khỏe mà bao gồm cả: “ suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi
trường”. Loại thiệt hại này thường gắn với chủ thể là Nhà nước. Một câu hỏi lớn
được đưa ra là: phải chăng, là do môi trường tự nhiên chưa bị ô nhiễm hay các
thành phần, tính hữu ích trong môi trường chưa được nghiên cứu, kiểm tra trên
quy mô lớn để tìm ra các sai phạm, hành vi vi phạm pháp luật để đưa ra những giải
pháp nhằm cải thiện môi trường, đưa môi trường về tình trạng ban đầu.
Phần
lớn, các vụ kiện đưa ra đều được giải quyết dưới hình thức hòa giải, thương lượng
giữa các bên và có sự chứng kiến của bên thứ ba ( các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương: Sở
Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân huyện,…). Tại điều 133 – Luật bảo vệ
môi trường có quy định về ba cách giải quyết gồm: Tự thỏa thuận giữa các bên,
yêu cầu trọng tài giải quyết và khởi kiện tại tòa án. Trong ba hình thức giải
quyết trên thì thực tiễn cho thấy có đến khoảng 80 – 90% vụ việc được giải quyết
về bồi thường thiệt hại được diễn ra dưới hình thức thương lượng, hòa giải đã
thành công. Còn lại, khoảng 10% không theo hình thức này chủ yếu là do vụ kiện
không đúng, hoặc yêu cầu quá cao mà người gây thiệt hại không thể đáp ứng.
Chính vì vậy, để giải quyết một cách hiệu quả và triệt để về tình hình thực trạng
bồi thường do làm ô nhiễm môi trường các nhà chức trách, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải kết hợp nhiều biện pháp trong quá trình giải quyết nhằm đạt hiệu quả
cao, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do
hành vi vi phạm pháp luật của các công ty, doanh nghiệp hiện nay.
V. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
1.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường
a.
Trong BLDS cần đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
làm cơ sở để xác định các thiệt hại trong từng lĩnh vực cụ thể. Qua đó, các cơ
quan có thẩm quyền có thể hiểu rõ và xác định một cách chính xác các trường hợp
gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
b.
Đồng thời, phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền khởi kiện đòi bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Tại khoản 1, điều 5 BLTTDS 2004 quy
định: “ Đương sự có quyền quyết định việc
khởi kiện, Tòa án chỉ thụ lí việc giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu của đương sự, và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu đó”.Theo quy định trên, người bị thiệt hại về tính mạng, tài sản, sức
khỏe chỉ được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ khởi kiện ra tòa
bởi họ chỉ được bồi thường khi họ thực hiện quyền khởi kiện. Tuy nhiên, từ thực
tế giải quyết những vụ đòi bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường như
trên thì việc thực hiện quyền khởi kiện đang là vấn đề còn nhiều tranh cãi, đòi
hỏi phải được giải quyết dứt điểm.
+
Với quy định như trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được đặt ra nếu
bên bị hại không thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu bên gây thiệt hại phải bồi
thường cho mình. Như vậy, vấn đề đặt ra là: nếu người bị thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe và tài sản vì lí do nào đó không thể khởi kiện thì đồng nghĩa với đó
là họ không được phục hồi những tổn thất về người và tài sản bị xâm hại mà đáng
lẽ ra họ có quyền được hưởng do cá nhân hoặc tổ chức nào đó phải gánh chịu do
hành vi gây ô nhiễm môi trường của mình. Qua đó, hành vi vi phạm pháp luật của
các cá nhân, tổ chức đó sẽ không bao giờ bị tố giác, phát hiện và họ sẽ không
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi đó của mình.
+
Mặt khác, trong tình hình thực tế hiện nay phạm vi ô nhiễm môi trường không chỉ
ảnh hưởng đến một vùng, một địa phương nhất định mà nó có thể lan trên diện rộng
( Như vụ kiện đòi bồi thường thiêt hại
do làm ô nhiễm môi trường của công ty Vedan làm ảnh hưởng tới ba tỉnh, thành phố
gồm: Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh). Vậy trong trường hợp
này, không thể áp dụng việc người nào bị thiệt hại muốn bảo vệ quyền lợi của
mình thì đi khởi kiện được sẽ gây ra tình trạng quá tải, không thể giải quyết
được của cơ quan nhà nước mà cần có người đại diện bị thiệt hại đứng ra tiến
hành khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân, tổ chức khác. Tuy nhiên, vấn
đề đặt ra là ai sẽ là người đại diện đứng ra để bảo vệ quyền lợi cho các cá
nhân, tổ chức khác thực hiện quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại. Đến đây,
pháp luật mới chỉ quy định chung chung: “
cơ quan, tổ chức trong phạm vi, nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi kiện
vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích công cộng, lợi ích của
nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách” ( điều 161 – BLTTDS ), trong khi
đó, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản lại là của từng cá nhân riêng biệt,
mà không phải thiệt hại của cơ quan, tổ chức nhà nước.
+
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao lại đưa ra quan điểm rằng: “ cơ quan tài nguyên môi trường có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án buộc cá nhân, cơ quan tổ chức, có hành vi
gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố gây ô nhiễm
môi trường công cộng”.
Quy định này chỉ đưa ra cơ quan tài nguyên môi trường mà không xác định rõ là Sở
tài nguyên và môi trường hay Bộ tài nguyên và môi trường. Mặt khác, tại điều
121 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định bao gồm: các Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp
chứ không phải cơ quan tài nguyên môi trường như theo quan điểm của Tòa án nhân
dân tối cao.
Như
vậy, qua các quy định của pháp luật về quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại
do làm ô nhiễm môi trường đã có sự vênh giữa Bộ luật TTDS, Luật bảo vệ môi trường
và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Các quy định
trên, mới chỉ nhìn nhận vấn đề ở một khía cạnh đơn lẻ của từng cá nhân mà chưa
tính đến thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường thường là gián tiếp và nó ảnh
hưởng tới cả một tổ chức, cộng đồng đông dân cư cùng sinh sống trong khu vực bị
ô nhiễm. Pháp luật chưa có sự kết hợp hài hòa giữa quyền khởi kiện của nhà nước,
của tổ chức đại diện lợi ích công cộng bị xâm hại đối với quyền khởi kiện của tổ
chức, cá nhân, dẫn đến hiệu quả của hoạt động này không cao, gây nhiêu khó khăn
cho cơ quan giải quyết.
Chính
vì vậy, vấn đề đặt ra là cần có sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật về
quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường nhằm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và buộc chủ thể gây ô
nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi của mình gây ra.
c.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại
do làm ô nhiễm môi trường
Tại
điều 160 BLDS 2005 quy định “ Không áp dụng
thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đối với trường hợp yêu cầu hoàn trả lại tài sản
thuộc sở hữu nhà nước; yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân bị xâm hại trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”. Tuy nhiên, tại điều 607 BLDS lại quy định: “ Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ
thể khác bị xâm hại”. Với hai quy định trên, vấn đề đặt ra là thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe do hành vi gây ô nhiễm môi trường thuộc trường hợp nào? Một là không áp dụng thời hiệu khởi kiện (
theo điều 160 ), hai là áp dụng thời hiệu khởi kiện là 2 năm ( theo điều 607).
Việc áp dụng thời hiệu khởi kiện theo điều 607 – BLDS 2005 đối với trường hợp
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe phải chăng là còn quá ngắn trong khi sức khỏe
con người bị thiệt hại không phải phát hiện được trong thời gian ngắn. Chính những
quy định này của pháp luật đã tạo ra một bài toán khó, nhức nhối cho các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân.
Từ
thực tiễn hai quy định trên, pháp luật nước ta trong thời gian tới cần đưa ra một
quy định rõ hơn về thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường theo hướng kéo dài hơn thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe. Đồng thời, pháp
luật cần quy định rõ giữa thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe với thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản. Qua đó, “ Pháp luật
cần có các quy định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như
người gây thiệt hại đối với môi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần
trong khoảng thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại”[10].
Như vậy, cần tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, tiến tới xây dựng Bộ Luật Môi
trường, hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập, khắc phục tình trạng
chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu khả thi. Hệ thống pháp
luật về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ thống pháp luật
chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan quản lí nhà nước về môi trường
-
Đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ quản lí về môi trường như: tập huấn nghiệp vụ chuyên môn về quản lý
môi trường về kỹ năng phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường”
dành cho các cán bộ lãnh đạo nhằm trang bị thêm cho các cán bộ công chức, viên
chức các kỹ năng phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước, kỹ năng phân tích,
mô tả vị trí việc làm, kỹ năng tổng hợp và
xây dựng báo cáo trong quá trình thực thi công vụ. Đây là một trong những nhiệm
vụ quan trọng cần được trang bị để tiến hành một cách chuẩn xác nhất trong quá
trình QLNN về bảo vệ môi trường.
- Tăng cường
công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý quyết liệt, giải quyết dứt điểm các vụ việc
về môi trường, các vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Cần tạo bước chuyển biến
mạnh mẽ từ nhận thức sang hành động cụ thể nhằm phát hiện kịp thời các trường hợp
VPPL về môi trường để có những biện pháp xử lí. Qua đó, nâng cao tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ QLMT, đồng thời
làm cho pháp luật trở nên nghiêm minh, tạo cơ sở vững chắc đểcán bộ hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Đưa ra các hình thức xử phạt nặng đối với những
cán bộ suy đồi đạo đức, đi ngược lại chủ trương của nhà nước nói chung và của
pháp luật về môi trường nói riêng. Cần có những biện pháp răn đe nghiêm khắc,
nhằm bồi dưỡng đạo đức, lương tâm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ hướng về lẽ phải,
bảo vệ công lí.
-
Quy
hoạch, quản lý đưa ra giải pháp xây dựng chiến lược bảo vệ, khai thác, sử dụng
các loại tài nguyên quan trọng đối với phát triển đất nước. Thiết lập cơ chế
quản lý, giám sát minh bạch, bảo đảm sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các
nguồn tài nguyên quốc gia.
3.
Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân nhất là đối với các đối
tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
- Đưa ra các hình thức xử phạt chặt chẽ,
nghiêm ngặt, đúng quy định pháp luật,
mang tính chất răn đe, tạo hành lang pháp lí vững chắc làm cơ sở để các tổ chức,
cá nhân thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình.
- Tuyên truyền về bảo vệ môi trường thông
qua các hoạt động như: nhà nước có các giải thưởng, hình thức khen thưởng về
bảo vệ môi trường cho tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động bảo vệ
môi trường; tổ chức các hình thức tìm hiểu về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao nhận
thức và ý thức bảo vệ môi trường của người dân.
- Giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân
lực bảo vệ môi trường, cần đưa kiến thức về bảo vệ môi trường ăn sâu vào tiềm
thức, ý thức của các cá nhân, tổ chức ở mọi lúc, mọi nơi nhằm xây dựng một môi
trường xanh, sạch, đẹp để bảo vệ môi trường, cũng chính là bảo vệ sức khỏe,
cuộc sống con người.
C – KẾT LUẬN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét