Thứ Tư, 6 tháng 7, 2016

Xây dựng và giải quyết các tình huống tổng hợp về xử lí vi phạm pháp luật môi trường và giải quyết tranh chấp môi trường



A – MỞ ĐẦU
Môi trường – nhân tố không thể thiếu đối với đời sống của mỗi con người. Tuy nhiên, hiện nay các thành phần trong môi trường đang bị ô nhiễm, suy giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của mỗi người nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Nó không chỉ gây ra những thiệt hại về tài sản mà nghiêm trọng hơn, đáng buồn hơn là nó đnag từng ngày ăn sâu vào sức khỏe của từng người dẫn đến hiện tượng xuất hiện các làng ung thư,…tại nhiều nơi có các nhà máy hoạt động. Ô nhiễm môi trường do nhiều nguyên nhân gây ra và một trong số đó là do các nhà máy đã và đang đặt lợi ích kinh tế lên trên lợi ích môi trường và lợi ích xã hội để thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Và một trong những vấn đề đang nổi lên trong giai đoạn hiện nay là việc vi phạm pháp luật môi trường và giải quyết trang chấp môi trường. Để làm rõ vấn đề này, em chọn đề số 80: “ Xây dựng và giải quyết các tình huống tổng hợp về xử lí vi phạm pháp luật môi trường và giải quyết tranh chấp môi trường”.
B – NỘI DUNG
I.Tình huống
Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn chuyên sản xuất, chế biến rau, củ, quả và Doanh nghiệp tư nhân An Phú chuyên giết mổ gia súc, gia cầm cùng đóng trên địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La nằm gần suối Nậm Na. Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn đi vào hoạt động từ tháng 10 – 2012, và Doanh nghiệp tư nhân An Phú đi vào hoạt động từ tháng 7 – 2012.
Vào khoảng cuối năm 2013, theo phản ánh của người dân ( gần 300 hộ dân ) sống quanh khu vực 2 doanh nghiệp hoạt động, người dân cho biết, từ khi 2 doanh nghiệp đi vào hoạt động, chế biến sản phẩm thì bầu không khí trong vùng không còn trong lành nữa, nguồn nước ngầm trong vùng có mùi hôi tanh, không thể sử dụng được. Nguyên nhân là do nước thải của 2 doanh nghiệp trên có nồng độ chất thải vượt quá QCKT cho phép ra suối Nậm Na, nước suối chảy vào ao cá của ông An và ruộng lúa của các hộ dân trong xã. Nước từ các ruộng lúa thẩm thấu đến mạch nước ngầm làm cho nguồn nước ngầm có màu vàng, váng không sử dụng được. Con suối Nậm Na gần khu vực nhà máy hoạt động nước có màu đen, mùi hôi bốc lên nồng nặc làm cho cá chết hàng loạt gây thiệt hại 300 triệu đồng cho gia đình ông An, gần 30ha lúa, hoa màu bị vàng cây, chết,…khiến mùa màng thất bát, nhiều gia đình trắng tay thiệt hai 200 triệu đồng. Không chỉ thiệt hại về tài sản của các hộ dân sinh sống quanh khu vực 2 nhà máy, nặng nề và đau xót hơn cả là trong tổng số gần 300 hộ dân thì có tới 50 người bị mắc các bệnh về da, bệnh đường ruột, làm sức khỏe giảm sút và mất nhiều chi phí, thời gian cho việc chữa trị với tổng thiệt hại là 500 triệu đồng. Nguyên nhân dẫn tới các bệnh trên đã được bệnh viện đa khoa xác nhận là do nguồn nước có chứa các chất độc.
Trước tình hình trên, ngày 15 – 12 – 2013, các hộ dân đã làm đơn khiếu nại gửi Thanh tra Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Sơn La với nội dung: yêu cầu 2 doanh nghiệp phải dừng ngay hoạt động xả nước thải chứa các chất độc hại ra môi trường và yêu cầu nhà máy phải bồi thường thiệt hại 1.8 tỉ đồng do thiệt hại về tài sản và sức khỏe. Ngay sau khi nhận được đơn khiếu nại, ngày 10 – 01 – 2014, Sở Tài nguyên và môi trường đã đến thanh tra và đưa ra kết luận:
1. Doanh nghiệp tư nhân An Phú không xây lắp đúng quy trình xử lí nước thải đúng yêu cầu theo quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM ( cụ thể: nhà máy chỉ có 3 hồ chứa nước nhỏ, đắp bằng đất thô sơ).
2. Hai nhà máy đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường là xả nước thải có chứa các thông số vượt quá QCKT Việt Nam cho phép, cụ thể: COD vượt QCKT 2,5 lần cho phép, califom vượt QCKT 3 lần, tổng nitơ vượt QCKT 3,5 lần. Căn cứ vào công suất hoạt động thì Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn mỗi ngày xả thải ra môi trường 400m3/ ngày, doanh nghiệp tư nhân An Phú xả 600m3/ngày.
3. Tổng thiệt hại về tài sản của các hộ dân trong xã là 500 triệu đồng, thiệt hại về sức khỏe của người dân là 500 triệu đồng. Tất cả các thiệt hại đều đã được xác minh chính xác.
II.Quá trình phân vai
   1.Người gây hại
Đại diện hai doanh nghiệp đã giải trình về hành vi của mình như sau:
- Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn: Thông qua kết quả kiểm tra của Sở Tài nguyên và môi trường, chúng tôi thấy doanh nghiệp chúng tôi không có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho người dân bởi chúng tôi không thực hiện hành vi xả thải nước thải chứa các thông số trên ra môi trường. Doanh nghiệp chúng tôi đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lí nước thải có chất lượng và theo đúng yêu cầu trong báo cáo ĐTM thì không có lí do gì chúng tôi lại xả nước thải có chứa các thông số trên. Mặt khác, theo kết quả kiểm tra, Doanh nghiệp tư nhân An Phú cũng đóng trên địa bàn huyện, cạnh con suối Nậm Na, không xây dựng hệ thống xử lí nước thải là không an toàn. Chính vì thế, các thông số trong nước thải trên là do doanh nghiệp tư nhân An Phú xả thải.
- Doanh nghiệp tư nhân An Phú: Tôi không đồng ý với ý kiến mà Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn đưa ra, đổ hết trách nhiệm cho doanh nghiệp chúng tôi là bởi lẽ:
+ Thứ nhất, chúng tôi thừa nhận chúng tôi chúng tôi đã vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường vì không lắp đặt hệ thống xử lí nước thải theo báo cáo ĐTM. Tuy nhiên, việc không lắp đặt nhưng không có nghĩa chúng tôi xả toàn bộ nước thải chứa các thông số trên.
+ Thứ hai, doanh nghiệp chúng tôi chuyên giết mổ gia súc gia cầm nên nước thải của doanh nghiệp chúng tôi chỉ chứa các thông số: BOD­5, chất rắn lơ lửng, califrom, độ màu, tổng phốt pho, tổng nitơ. Căn cứ vào kết quả kiểm tra thì chúng tôi thừa nhận là có 2 thông số chứa trong nước thải của chúng tôi là: califrom, tổng nitơ.
+ Thứ ba, theo chúng tôi được biết, doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn chuyên chế biến rau, củ, quả thì sau quá trình chế biến, nước thải của doanh nghiệp sẽ chứa các thông số sau: COD, BOD5, chất rắn lơ lửng. Như vậy, trong 3 thông số doanh nghiệp chúng tôi đã xả ra 2 thông số thì đương nhiên thông số còn lại: COD phải do doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn xả ra vì dọc suối Nậm Na chỉ có 2 doanh nghiệp hoạt động.
Đồng thời, chúng tôi không đồng ý mức bồi thường như trên bởi lẽ:
+ Mức bồi thường người dân đưa ra là quá cao so với thiệt hại thực tế
+ Mặt khác nguyên nhân gây ra các thiệt hại trên không chỉ mình doanh nghiệp tôi mà trong đó còn cả doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn nữa.
Sau khi có kết quả giám định chính thức thông số nào do chúng tôi xả thải, khi đó chúng tôi mới đề cập tới vấn đề bồi thường.
   2.Người bị thiệt hại
Chúng tôi đưa ra mức bồi thường như trên là hoàn toàn hợp lí bởi:
Vì nước thải của 2 doanh nghiệp trên có chứa các thông số gây thiệt hại cho chúng tôi. Từ đó đã làm thiệt hại về tài sản cho chúng tôi là: 300 triệu đồng của ông An ( do toàn bộ cá bị chết), 200 triệu đồng ( do lúa, hoa màu của các hộ dân bị chết, mất mùa) và 500 triệu đồng tiền chữa, điều trị bệnh. Tất cả các thiệt hại này chúng tôi đều có xác minh chính xác.
Ngoài ra, chúng tôi đòi bồi thường 1.8 tỉ đồng là có căn cứ: nhiều người dân bị mắc các bệnh về da, đường tiêu hóa,…trong quá trình điều trị bệnh họ không tiến hành làm việc được do đó không có thu nhập cộng với thời gian đi lại để khám, chữa trị. Đồng thời, sau khi chữa trị sức khỏe chúng tôi bị giảm sút không còn khả năng lao động như trước nữa.
Căn cứ vào thiệt hại tài sản và sức khỏe chúng tôi yêu cầu 2 doanh nghiệp phải bồi thường 1.8 tỉ đồng.
III.Hướng giải quyết
   1.Xử lí vi phạm pháp luật môi trường
a.Xác định hành vi vi phạm
Thông qua kết quả kiểm tra của Sở tài nguyên và môi trường ta nhận thấy:
* Doanh nghiệp tư nhân An Phú không xây lắp đúng quy trình xử lí nước thải đúng yêu cầu theo quyết định phê duyệt báo cáo ĐTM ( cụ thể: nhà máy chỉ có 3 hồ chứa nước nhỏ, đắp bằng đất thô sơ).
Hành vi xây lắp không đúng hệ thống xử lí nước thải theo nội dung báo cáo ĐTM đã được phê duyệt. Cụ thể, doanh nghiệp chỉ có 3 hồ chứa nước nhỏ đắp bằng đất, theo quy định tại Điều 82, Luật Bảo vệ môi trường 2005 về hệ thống xử lí nước thải quy định:
“ 1. Đối tượng sau đây phải có hệ thống xử lý nước thải:
a) Khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung;
b) Khu, cụm công nghiệp làng nghề;
c) Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không liên thông với hệ thống xử lý nước thải tập trung”.
Với quy định này, doanh nghiệp tư nhân An Phú phải có hệ thống xử lí nước thải. Tuy nhiên, hệ thống xử lí nước thải phải đáp ứng yêu cầu:
“a) Có quy trình công nghệ phù hợp với loại hình nước thải cần xử lý;
b) Đủ công suất xử lý nước thải phù hợp với khối lượng nước thải phát sinh;
c) Xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường;
d) Cửa xả nước thải vào hệ thống tiêu thoát phải đặt ở vị trí thuận lợi cho việc kiểm tra, giám sát;
đ) Vận hành thường xuyên
Thông qua quy định này, việc doanh nghiệp An Phú xây lắp hệ thống xử lí nước thải là không đúng yêu cầu bởi doanh nghiệp chỉ có 3 hồ chứa nước nhỏ đắp bằng đất thì chưa đảm bảo yêu cầu “Có quy trình công nghệ phù hợp với loại hình nước thải cần xử lý” ( điểm a, khoản 2, Điều 82, Luật Bảo vệ môi trường 2005).
Như vậy, với việc không lắp đặt đúng hệ thống xử lí nước thải theo báo cáo ĐTM đã được phê duyệt, doanh nghiệp tư nhân An Phú đã vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường.
*Hai nhà máy đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường là xả nước thải có chứa các thông số vượt quá QCKT Việt Nam cho phép.
- Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn chuyên chế biến rau, củ, quả: tuy doanh nghiệp đã tiến hành lắp đặt hệ thống xử lí nước thải theo đúng báo cáo ĐTM nhưng kết quả kiểm tra cho thấy trong nước thải của 2 doanh nghiệp có chứa 3 thông số vượt QCKT cho phép gây ô nhiễm môi trường. Căn cứ vào Phụ lục: Bảng thông số môi trường chính về nước thải, khí thải, tiếng ồn, độ rung để đánh giá và phân loại cơ sở gây ô nhiễm môi trường thì doanh nghiệp chế biến rau, của, quả chứa các thông số môi trường chính sau: “ COD, BOD5, chất rắn lơ lửng”. Như vậy, trong 3 thông số thì doanh nghiệp có trùng 1 thông số COD.
- Doanh nghiệp tư nhân An Phú chuyên giết mổ gia súc, gia cầm: Căn cứ vào “ Phụ lục: Bảng thông số môi trường chính về nước thải, khí thải, tiếng ồn, độ rung để đánh giá và phân loại cơ sở gây ô nhiễm môi trường” thì nước thải của doanh nghiệp chứa các thông số: BOD­5, chất rắn lơ lửng, califrom, độ màu, tổng phốt pho, tổng nitơ” . Như vậy, doanh nghiệp tư nhân An Phú có 2 thông số trùng với kết quả là: califrom, tổng nitơ.
Thực tế, trên dọc suối Nậm Na chỉ có hai doanh nghiệp này hoạt động nên căn cứ vào kết quả kiểm tra và Bảng Phụ lục ta xác định được:
+ Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn trong nước thải có chứa 1 thông số COD xả ra môi trường.
+ Doanh nghiệp tư nhân An Phú trong nước thải có chứa 2 thông số: califrom và tổng nitơ xả ra môi trường.
Căn cứ vào Danh mục chất thải nguy hại quy định tại Quyết định 23/2006 Bộ Tài nguyên và Môi trường thì 3 thông số trên: califrom, tổng nitơ, COD không nằm trong danh mục chất thải nguy hại. Do đó, nước thải của 2 doanh nghiệp trên chứa các thông số môi trường không nguy hại vào môi trường.
Tuy nhiên, 2 doanh nghiệp đã có hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường vì đã thực hiện hành vi bị nghiêm cấm được quy định tại khoản 5, Điều 7, Luật Bảo vệ môi trường 2005: Thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước”. Đồng thời, 2 doanh nghiệp này đã không thực hiện việc thu gom, xử lí nước thải “ Nước thải của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung phải được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường” ( khoản 2, Điều 81, Luật Bảo vệ môi trường 2005).
b.Hình thức xử phạt
Căn cứ vảo khoản 1, Điều 127, Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định: “ Người vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì còn phải khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Đồng thời, căn cứ vào điểm a, c khoản 2, Điều 1, Nghị định số 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
“ Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bao gồm:
a.Các hành vi vi phạm các quy định về cam kết bảo vệ môi trường, báo cáo đánh giá tác động môi trường, đề án bảo vệ môi trường;
c.Các hành vi vi phạm các quy định về quản lí chất thải;”
Theo đó, 2 doanh nghiệp bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể:
*Xử phạt đối với hành vi xả nước thải chứa các thông số vượt quá QCKT
Do hai doanh nghiệp không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nên căn cứ vào khoản 4, Điều 23, Luật xử lí vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “ Mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt”.
- Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn bị xử phạt:
+ Phạt tiền  155 000 000 đồng ( áp dụng khung tiền phạt:“ Phạt tiền từ 150 000 000 đồng đến 160 000 000 đồng trong trường hợp thải lượng nước thải từ 400m3/ngày  ( 24 giờ) đến dưới 600m3/ ngày ( 24 giờ)”.[4]
+ Phạt tiền 3 100 000 đồng ( áp dụng khoản 5, Điều 13, Nghị định 179 “ Phạt tăng thêm 2% đối với mỗi thông số môi trường vượt QCKT từ 02 đến dưới 05 lần”).
Vì Doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn là tổ chức kinh tế nên áp dụng khoản 1, Điều 5, Nghị định 179/2013 tổng số tiền nộp phạt của doanh nghiệp là: 312 200 000 đồng
-Doanh nghiệp tư nhân An Phú bị xử phạt:
+ Phạt tiền 170 000 000 đồng ( áp dụng khung tiền phạt:“ Phạt tiền từ 160 000 000 đồng đến 180 000 000 đồng trong trường hợp thải lượng nước thải từ 600m3/ngày ( 24 giờ) đến dưới 800m3/ ngày ( 24 giờ)” ( điểm l, khoản 2, Điều 13, Nghị định 179).
+ Phạt tiền 3 400 000 đồng ( áp dụng khoản 5, Điều 13, Nghị định 179: “ Phạt tăng thêm 2% đối với mỗi thông số môi trường vượt QCKT từ  02 lần đến dưới 5 lần).
Số tiền nộp phạt của doanh nghiệp là: 346 800 000 đồng.
Ngoài ra, 2 doanh nghiệp còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung quy định tại điểm a, khoản 6, Điều 13, Nghị định 179)“ Đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường của cơ sở hoặc khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung từ 03 tháng đến 06 tháng”
Và bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả gồm:
“ a.Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này gây ra;
b.Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính đối với các vi phạm quy định tại Điều này;
c.Buộc chi trả chi phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kĩ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm quy định tại Điều này”.
*Xử phạt đối với hành vi không lắp đặt hệ thống xử lí nước thải theo yêu cầu báo cáo ĐTM của Doang nghiệp tư nhân An Phú
Phạt tiền 75 000 000 đồng ( áp dụng khung tiền phạt: “ Phạt tiền từ 70 000 000 đồng đến 80 000 000 đồng đối với hành vi thực hiện không đúng một trong các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt, trừ trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và g Khoản này”).
Do Doanh nghiệp tư nhân An Phú là tổ chức kinh tế nên số tiền nộp phạt là 150 000 000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền nộp phạt của Doanh nghiệp tư nhân An Phú với 2 hành vi vi phạm là  496 800 000 đồng.
Ngoài ra, Doanh nghiệp còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: “ Buộc phải xây lắp công trình xử lí môi trường đạt tiêu chuẩn kĩ thuật; buộc phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong thời hạn do người có thẩm quyền xử phạt ấn định trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều này”( khoản 4, Điều 9, nghị định số 179/2013).
c.Thẩm quyền xử phạt
Hai vi phạm trên thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La bởi căn cứ vào điểm b, khoản 3, Điều 50, Nghị định 179/2013 quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND các cấp, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền: “ Phạt tiền đến 1 000 000 000 đồng”.
    2.Giải quyết tranh chấp
Căn cứ vào điểm b, khoản 1, Điều 129, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 quy định: Nội dung tranh chấp về môi trường, ta xác định nội dung tranh chấp trong tình huống là: tranh chấp về việc đòi bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
          Xác định thiệt hại: căn cứ vào Điều 130, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 ta xác định được thiệt hại mà 2 doanh nghiệp gây ra gồm: thiệt hại về tài sản và thiệt hại về sức khỏe của người dân trong xã.
“ Việc giải quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”( khoản 3, Điều 129, Luật bảo vệ môi trường năm 2005).
Căn cứ vào Điều 133, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 thì hai bên: bên gây thiệt hại ( doanh nghiệp tư nhân Mai Sơn và Doanh nghiệp tư nhân An Phú ) với bên bị thiệt hại ( ông An và các hộ gia đình trong xã ) đã lựa chọn phương thức bồi thường thiệt hại trên cơ sở tự thỏa thuận.
          Những người bị thiệt hại trong xã đưa ra mức bồi thường là 1.8 tỉ đồng đối với những thiệt hại mà 2 doanh nghiệp gây ra: thiệt hại về tài sản 300 000 000 đồng ( ông An), 200 000 000 đồng ( lúa chết của nhiều hộ dân) và thiệt hại về sức khỏe 500 000 000 đồng.
          Tuy nhiên, đại diện 2 doanh nghiệp không đồng ý mức bồi thường trên, họ cho rằng mức bồi thường là quá cao so với thiệt hại xảy ra, họ chỉ đồng ý bồi thường 1 tỉ đồng đúng mức thiệt hại đã xảy ra trên thực tế.
          Sau 2 lần thương lượng, đại diện phía người dân và đại diện 2 doanh nghiệp đã chấp nhận mức bồi thường 1,2 tỉ đồng.
C – KẾT LUẬN
Tình huống trên chỉ là một phần rất nhỏ của thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp, nhà máy chế biến hiện nay, các chủ doanh nghiệp luôn đặt lợi ích kinh tế lên trên lợi ích xã hội và lợi ích môi trường. Chính vì vậy, các thành phần môi trường ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Để giảm thiểu tình trạng gây ô nhiễm môi trường mỗi cá nhân, tổ chức, và quan trọng hơn cả là pháp luật nước ta cần có những chế tài xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật môi trường, góp phần đem lại một môi trường sống trong lành cho mọi người và hướng tới phát triển bền vững.


1 nhận xét: