Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2016

GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức

A – MỞ ĐẦU
          Tiếp cận luật DS không ít người thích thú với nó ở việc tạo cho con người một cái nhìn khác về các mối quan hệ trong xã hội, trong đó quan hệ nhân thân có, quan hệ mua bán có,…đặc biệt nói đến DS thì không thể không nhắc đến GDDS. GDDS là một loại quan hệ quan trọng, có tính phổ biến cao, được áp dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày nhất là trong lĩnh vực giao lưu DS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát sinh nhiều loại hình GDDS đòi hỏi pháp luật phải thể chế hóa các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại không ít những GDDS vô hiệu gây nhiều tranh cãi cũng như việc giải quyết còn gặp nhiều khó khăn. Mặc dù, trong BLDS 2005 đã quy định các trường hợp cũng như cách giải quyết các loại GDDS vô hiệu nhưng liệu nó đã được giải quyết triệt để chưa, đem lại sự thuyết phục, hợp tình, hợp lí chưa thì đó vẫn còn là một câu hỏi khó, đòi hỏi phải được xem xét lại. Chính vì lí do đó, em đã chọn đề bài: “ GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”. Qua đó để em và mọi người có thể hiểu rõ hơn về loại GDDS vô hiệu này.
B – NỘI DUNG
I, Những vấn đề lí luận về GDDS vô hiệu do nhầm lẫn và hậu quả pháp lí của GDDS vô hiệu do nhầm lẫn
1. Khái quát chung về GDDS
a. Khái niệm chung về GDDS
Chế định GDDS được quy định trong chương 5, phần thứ nhất của Bộ luật DS nước CHXHCN Việt Nam. Cụ thể, GDDS được quy định tại điều 121 BLDS Việt Nam 2005: “ GDDS là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ DS”.
Khái niệm GDDS không chỉ dừng lại ở đó, mà dưới nhiều góc độ khác nhau các nhà khoa học lại có những cách hiểu khác nhau, từ đó họ đưa ra những quan điểm khác nhau về GDDS. Theo từ điển Tiếng việt thì: “ giao dịch là nơi gặp gỡ, tiếp xúc nhau”, nếu hiểu như vậy, chỉ nói lên việc tiếp xúc nhau để thể hiện ý chí của các bên được trực tiếp và công khai thì giao dịch có phần hơi hạn hẹp . Theo cách hiểu khác:“ GDDS là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho việc thực hiện kết quả thành hiện thực” hay quan điểm đó còn được hiểu: “ một sự kiện pháp lí bao gồm hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa phương         ( hợp đồng ) làm phát sinh hậu quả pháp lí”. Với các cách hiểu như vậy, GDDS dù được nhìn nhận dưới góc độ nào đi nữa nó cũng đều bao gồm: hợp đồng và hành vi pháp lí đơn phương.
- Hợp đồng dân sự: “ là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” ( Điều 388 – BLDS 2005 ). Hợp đồng DS là loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất, nó phát sinh thường xuyên trong đời sống hàng ngày và giữ vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản. Thông thường, hợp đồng DS có nhiều bên tham gia trong đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong quan hệ cụ thể. Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia.
+ Trong hợp đồng DS, sự tự do thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể trong GDDS được hiểu là sự bàn bạc thống nhất đi đến ý chí của các bên hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền, nghĩa vụ DS nhất định. Tuy nhiên, thỏa thuận này sẽ không bị cản trở nếu không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Nhưng trên thực tế, “ sự tự do ý chí này mới chỉ là điều kiện cho sự phát sinh một quan hệ hợp đồng. Sự tự do ý chí phải đi đến thỏa thuận làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ DS mới đủ để hình thành một hợp đồng trên thực tế”[1].                                                                                                           
- Hành vi pháp lí đơn phương: là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ DS. Thông thường hành vi pháp lí đơn phương được xác lập theo ý chí của một bên chủ thể duy nhất ( lập di chúc, từ chối hưởng thừa kế ). Chẳng hạn: một người trước khi chết lập di chúc, người lập di chúc đã thể hiện ý chí cá nhân của mình để định đoạt với số tài sản mà họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận tài sản ( trừ trường hợp người nhận tài sản đó từ chối không nhận theo điều 645 – BLDS ). Tuy nhiên, cũng có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia vào một bên của giao dịch ( hai cá nhân,…). Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lí đơn phương chỉ phát sinh hậu quả pháp lí khi có những người khác đáp ứng được điều kiện nhất định do người xác lập đưa ra. Hành vi pháp lí đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và hình thức phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của GDDS ( điều 122 BLDS ).
b, Đặc điểm của GDDS
- GDDS phải thể hiện được ý chí đích thực của các bên khi tham gia giao dịch: GDDS thực sự đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống thường ngày của xã hội, đặc biệt trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội. Khi tham gia giao dịch các chủ thể đều đạt được mục đích nhất định mà mình mong muốn, nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh, sản xuất,… Tuy nhiên, để đạt được mục đích đó, các chủ thể phải thể hiện ý chí của mình và ý chí đó phải được thể hiện theo một hình thức nhất định, phù hợp với quy định của pháp luật thì mới làm phát sinh hậu quả pháp lí.
- Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện: GDDS được hình thành trên cơ sở ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch. Câu hỏi được đặt ra là: ý chí là gì? Ý chí ở đây được hiểu là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của chủ thể và được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định để các chủ thể khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham gia vào một GDDS cụ thể. Vì vậy, GDDS phải là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Thiếu sự thống nhất này, GDDS có thể bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ vô hiệu.
- Chế tài trong GDDS mang tính bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt: đây là nguyên tắc cơ bản của luật dân sự nói chung và của GDDS nói riêng. Đặc diểm này thể hiện việc “xây dựng các chế định của GDDS dựa trên các nguyên tắc thỏa thuận, tự do cam kết và xây dựng chế tài”[2].
- Nội dung của giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức xã hội: nghĩa là lợi ích mà các chủ thể nhằm hướng tới khi tham gia GDDS không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Trong GDDS, các chủ thể tham gia GDDS đều nhằm một mục đích nhất định và mong muốn mục đích đó trở thành hiện thực. Chính vì vậy, pháp luật không chỉ đặt ra các điều kiện cho giao kết trở thành hiện thực mà còn đặt ra các quy phạm pháp luật khác nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của người tham gia.
2. Khái quát chung về GDDS vô hiệu
     a. Khái niệm GDDS vô hiệu
GDDS không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 122  của Bộ luật này thì vô hiệu ( Điều 127 BLDS 2005 ). Đó là các trường hợp cụ thể:
- Người tham gia vào giao dịch có NLHVDS.
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
- Hình thức của GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.
Như vậy, ta có thể khẳng định: GDDS vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ DS. Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên được nhà nước đảm bảo thực hiện. Tuy nhiên, trong các điều kiện trên thì điều kiện về hình thức không mang tính bắt buộc, nó chỉ mang tính bắt buộc khi nhà nước có yêu cầu một loại giao dịch nào đó nhất thiết phải tuân thủ theo một hình thức nhất định mà pháp luật quy định.
Việc tuyên bố GDDS vô hiệu thuộc thẩm quyền của tòa án, thể hiện bằng một bản án hoặc một quyết định tuyên bố một GDDS vô hiệu cùng những hậu quả pháp lí của giao dịch đó. Tòa án chỉ xem xét và tuyên bố giao dịch vô hiệu khi có yêu cầu của các bên hoặc đại diện của họ. Tuy nhiên, không phải khi nào yêu cầu của các bên tòa án cũng tuyên bố GDDS vi phạm các điều kiện đều vô hiệu. Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, vào chính giao dịch được xác lập qua đó tòa án mới đưa ra những quyết định phù hợp với thực tế: tuyên bố vô hiệu hoặc yêu cầu các bên thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật.
     b. Phân loại GDDS vô hiệu
Căn cứ vào mức độ vi phạm, chia GDDS vô hiệu ra làm hai loại: GDDS vô hiệu tuyệt đối và GDDS vô hiệu tương đối. chúng là công cụ không thể thiếu trong việc nghiên cứu bản chất  của GDDS cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến thủ tục tuyên bố một GDDS vô hiệu. Cụ thể:
- GDDS vô hiệu bị coi là tuyệt đối trong các trường hợp: Khi vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội ( điều 128 BLDS ); khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc nhằm chốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba ( điều 129 BLDS ); GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức ( điều 134 BLDS ). Đối với loại GDDS vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị vô hiệu và thời hạn tuyên bố vô hiệu là không hạn chế. Đặc biệt, “ GDDS vô hiệu tuyệt đối không có hiệu lực làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên, thậm chí ngay cả khi các bên đã tiến hành các hành vi theo nội dung cam kết”[3]. Và vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án, hay nói cách khác nó vô hiệu ngay cả khi không có quyết định của Tòa án.
- GDDS vô hiệu bị coi là tương đối trong các trường hợp: Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất NLHVDS, người bị hạn chế NLHVDS ( điều 130 BLDS ); khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn ( điều 131 BLDS ); khi một chủ thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe dọa ( điều 132 BLDS ); khi người xác lập giao dịch đủ NLHVDS nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình ( điều 133 NLDS ). GDDS vô hiệu tương đối chỉ vô hiệu khi hội đủ những điều kiện nhất định là: khi có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và có quyết định của tòa án. Thời hiệu khởi kiện là 2 năm kể từ thời điểm GDDS được xác lập. GDDS vô hiệu này chỉ bị vô hiệu khi có tuyên bố vô hiệu của tòa án. Đối với “ GDDS vô hiệu tương đối thì quyết định của tòa án là cơ sở duy nhất làm cho giao dịch trở nên vô hiệu, quyết định của tòa án mang tính chất phán xử”.[4]
3. GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
     a. Khái niệm hình thức
Dựa vào đặc điểm chung của GDDS thì yêu cầu đặt ra phải có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia GDDS. Câu hỏi đặt ra là: Sự thống nhất đó được thể hiện như thế nào? Đó là việc dựa vào một hình thức nhất định phù hợp với ý chí  đích thực mà các bên tham gia giao dịch mong muốn đạt được. “ Hình thức của GDDS là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới một cách thức nhất định của chủ thể tham gia giao dịch”[5]. Thông qua hình thức này mà các bên tham gia giao dịch có thể nắm bắt một cách rõ ràng, chi tiết nội dung của giao dịch. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng: đây chính là căn cứ để xác nhận các quan hệ đã và đang tồn tại giữa các bên. Qua đó, có thể xác định được trách nhiệm của mỗi chủ thể khi tham gia GDDS khi xảy ra hành vi vi phạm.
Hình thức của GDDS được quy định tại điều 124 BLDS 2005:
1. GDDS được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể:
GDDS thông qua phương tiện thông tin điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản
2. Trong trường hợp pháp luật quy định GDDS phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hình thức của GDDS rất phong phú, đa dạng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể:
- Hình thức GDDS được thể hiện bằng lời nói, hoặc bằng hành vi cụ thể. Hình thức này thường được áp dụng cho các giao dịch được thực hiện và chấm dứt ngay sau khi mua bán, hoặc giữa các chủ thể có mối quan hệ thân thiết, tin cậy. Tuy nhiên, cũng có những GDDS thể hiện bằng lời nói phải tuân thủ những điều kiện do pháp luật quy định.
- Hình thức của GDDS được thể hiện bằng văn bản thường: hình thức này được áp dụng trong các trường hợp các bên tham gia GDDS thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch phải được thể hiện bằng hình thức văn bản. Nội dung của giao dịch được thể hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của chủ thể. Hình thức này có giá trị làm chứng cao hơn hình thức thể hiện bằng lời nói trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của các bên.
+ Văn bản có công chứng, chứng nhận, UBND cấp có thẩm quyền chứng thực. Văn bản này được quy định trong những trường hợp pháp luật quy định GDDS bắt buộc phải lập thành văn bản hoặc các bên có thỏa thuận phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí, hoặc xin phép thì khi xác lập giao dịch các bên phải tuân thủ hình thức. Hình thức này được áp dụng đối với những tài sản có giá trị ( mua nhà, chuyển quyền sử dụng đất ). Với việc thực hiện hình thức này  giúp cho các cơ quan nhà nước quản lí, kiểm soát được một số giao dịch, làm cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch.
- Hình thức bằng hành vi: GDDS có thể được xác lập thông qua những hành vi nhất định theo quy ước định trước. Giao dịch có thể được xác lập thông qua hình thức này mà không nhất thiết phải có sự hiện diện đồng thời của tất cả các bên tại nơi giao kết.
Như vậy, hình thức của GDDS là căn cứ để xác định điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật quy định. Khi một trong các bên hoặc cả hai không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì GDDS có thể bị tuyên bố vô hiệu.
     b. GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức ( điều 134 BLDS 2005)
Trong trường hợp pháp luật quy dịnh hình thức GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân thủ theo, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Như đã biết, hình thức của giao dịch là phương tiện thể hiện ý chí của các bên tham gia giao dịch. Thông qua hình thức các bên tham gia GDDS có thể hiểu rõ ràng và đúng nội dung của giao dịch. Theo điều 124 BLDS 2005 quy định hình thức giao dịch rất phong phú, đa dạng và các bên có thể thỏa thuận về hình thức giao dịch. Trong một số trường hợp cụ thể vì sự an toàn về mặt pháp lí cho các chủ thể tham gia giao dịch, pháp luật yêu cầu một số giao dịch phải tuân theo hình thức bắt buộc do pháp luật quy định.
Một GDDS vi phạm quy định về hình thức có thể bị tòa án tuyên bố là vô hiệu, nhưng không phải bị tuyên bố vô hiệu ngay tại thời điểm yêu cầu, mà tùy theo vào từng giao dịch cụ thể, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác sẽ cho các bên một thời gian hợp lí để các bên thực hiện đầy đủ các quy định. Trong khoảng thời gian đó, nếu các bên thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về hình thức của giao dịch thì giao dịch đó có hiệu lực từ khi các bên tuân thủ quy định đó. Ngược lại, nếu hết thời hạn đó mà các bên vẫn không thực hiện theo quy định của pháp luật về hình thức của giao dịch thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch đó vô hiệu kể từ thời điểm xác lập giao dịch. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
     c. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định tại khoản 1, điều 136 BLDS 2005: “Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu được quy định tại các điều từ điều 130 đến điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày GDDS được xác lập”.
Về nguyên tắc, GDDS vô hiệu phải bị hủy bỏ. Tuy nhiên, trong một giao dịch không phải lúc nào các bên tham gia giao dịch đó cũng phát hiện ra các vi phạm về hình thức để dẫn đến GDDS vô hiệu mà thông thường chỉ có một bên có lợi ích trong việc hủy bỏ GDDS vô hiệu. Chính vì vậy, việc quy định thời hạn để các bên yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lí luận và thực tiễn. Để xác định được thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu ta cần tìm hiểu cơ sở lí luận của nó dự trên 3 vấn đề: “ Thứ nhất: thời gian có thể làm cho GDDS vi phạm điều kiện mà pháp luật quy định trở thành giao dịch có hiệu lực pháp luật được không? Thứ hai: Quyền tự định đoạt của các bên trong hợp đồng sau một thời gian nhất định. Thứ ba, nhu cầu bảo vệ sự ổn định GDDS nhằm đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích của nhà nước, của xã hội và của công dân”[6].
Như vậy, GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức có thời hiệu trong vòng hai năm. Nếu họ không khởi kiện trong thời hạn này thì có nghĩa rằng: họ từ chối quyền yêu cầu được pháp luật bảo vệ. Đối với việc quy định thời hiệu thì BLDS 2005 quy định khác BLDS 1995, cụ thể: GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức có thời hiệu khởi kiện là hai năm, nhưng tại điều 145 BLDS 1995 quy định: thời hiệu khởi kiện của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là không hạn chế. Qua đó, ta thấy được sự khác nhau rõ rệt của hai Bộ luật, nó thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo của pháp luật trước yêu cầu của xã hội. Nó góp phần tạo điều kiện cho các chủ thể trong các quan hệ dân sự thực hiện được những mong muốn của mình.
   d. Hậu quả pháp lí của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Theo từ điển Luật học thì “ hậu quả pháp lí là kết cục tất yếu sẽ dẫn đến, mà các cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trong trường hợp VPPL”[7].Hay hậu quả pháp lí của GDDS là những hệ quả pháp lí bất lợi phát sinh theo quy định của pháp luật khi GDDS vô hiệu mà các chủ thể tham gia phải gánh chịu. Thông thường, “hậu quả này thường dẫn đến sự bất lợi về tài sản hoặc vật chất, nằm ngoài ý chí mong muốn của chủ thể”[8]. Hậu quả pháp lí của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định tại điều 137 BLDS 2005:
1. GDDS vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi GDDS vô hiệu thì các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
- Như vậy, khi GDDS vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được pháp luật bảo vệ và thừa nhận. Nếu giao dịch mới được xác lập mà chưa được thực hiện thì các bên không được phép thực hiện, còn nếu đang thực hiện thì không được tiếp tục thực hiện nữa. Nếu giao dịch đã thực hiện thì các bên xử lí tài sản. Trong trường hợp, GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức mà một trong các bên không khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu hoặc hết thời hiệu khởi kiện họ mới có đơn khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì giao dịch mà họ kí kết không trở nên vô hiệu. GDDS đó vẫn có hiệu lực pháp lí và các bên tham gia giao kết vẫn tiếp tục thực hiện theo các điều khoản như đã kí kết.
- Khi GDDS vô hiệu thì các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Hậu quả này chỉ đặt ra trong trường hợp các bên đã hoặc đang thực hiện giao dịch đó. Theo nguyên tắc, một GDDS vô hiệu không làm phát sinh hiệu lực của các điều khoản mà các bên chủ thể đã thỏa thuận thông qua hợp đồng. Vì vậy, các bên đã thực hiện giao dịch, chuyển giao cho nhau tài sản thì họ phải khôi phục lại tình trạng tài sản như lúc ban đầu khi họ chưa giao cho nhau. Bên cạnh đó họ phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Khi hoàn trả lại tài sản, các bên phải chứng minh được những tài sản mà mình đã giao nhận khi thực hiện giao dịch. Hậu quả này là một biện pháp phổ biến để giải quyết hậu quả GDDS vô hiệu nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu.
- Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Đây là một hình thức trách nhiệm DS nhằm buộc các bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại. Một vấn đề quan trọng là việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi gây ra GDDS vô hiệu, đối với tất cả các GDDS vô hiệu thì phải bồi thường thiệt hại cho bên có lỗi , nếu cả hai bên cùng có lỗi thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của mình.
Như vậy, GDDS vô hiệu sẽ dẫn tới nhiều hậu quả pháp lí bất lợi, chính vì vậy ngay từ thời điểm xác lập giao dịch các bên cần tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng để hạn chế tới mức thấp nhất những hậu quả có thể phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Do đó, khi tuyên bố một GDDS vô hiệu Tòa án phải căn cứ vào hậu quả pháp lí để xác định lỗi của các bên chủ thể từ đó mới có thể xác định được mức bồi thường thiệt hại cũng như các hậu quả pháp lí khác nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Đặc biệt, hậu quả của GDDS vô hiệu được quy định tại điều 137 BLDS 2005 có sự thay đổi so với BLDS 1995. Quy định này là một bước tiến làm cho pháp luật DS khả thi hơn và bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích DS.
II. Một số vấn đề thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng giải quyết GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
1. Thực trạng pháp luật về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
     a. Quy định về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Trong BLDS 2005 quy định: hình thức là điều kiện có hiệu lực của GDDS nói chung và hợp đồng nói riêng. Có thể thấy quy định này quá coi trọng yếu tố hình thức trong một GDDS. Như đã biết, hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhưng nếu quá coi trọng yếu tố này sẽ làm mất đi tính tự do thỏa thuận dẫn đến việc nhà nước can thiệp quá sâu vào các GDDS, làm cản trở sự phát triển của các quan hệ pháp luật do bị hạn chế sự tự do ý chí của các bên. Bởi tự do ý chí không chỉ thể hiện trong việc tự nguyện xác lập hợp đồng mà cả trong việc lựa chọn hình thức giao dịch.
     b. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Theo quy định tại điều 121 BLDS 2005 thì GDDS là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương, nên các vụ án về hợp đồng DS đương nhiên sẽ áp dụng điều 136 BLDS về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu. Như vậy có thể hiểu: nếu một bên yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu một hợp đồng mua bán đất mà quá thời hạn hai năm thì Tòa án bác yêu cầu của họ và đương nhiên hợp đồng đó được công nhận là có hiệu lực. Ngược lại, nếu trong thời gian hai năm một trong các bên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức thì Tòa án lại căn cứ vào điều 134 BLDS 2005 ra quyết định buộc các bên phải thực hiện quy định về hình thức trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu. Tôi không đồng tình với quy định trên, dường như quy định của hai điều luật này có sự mâu thuẫn lẫn nhau. Vấn đề đặt ra nếu các bên thực hiện được quy định về hình thức hoặc không thực hiện được quy định về hình thức thì tòa lại có hai cách giải quyết khác nhau như vậy là không thỏa đáng và hợp lí. Chẳng hạn, trong hợp đồng mua bán nhà, người mua đã trả hết tiền nhưng bản hợp đồng đó chưa được công chứng mà đến thời điểm hiện tại giá trị của ngôi nhà tăng lên gấp nhiều lần ( hợp đồng chưa quá hai năm ). Khi đó, người bán không muốn giao ngôi nhà đó, thì chính họ là người yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Rõ ràng trong trường hợp này, hành vi của người bán là không trung thực, thiện chí. Nhưng cũng là hợp đồng đó được đặt trong trường hợp thứ hai, khi hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì đương nhiên hợp đồng đó vẫn có hiệu lực, mà người bán lại không muốn bán nhà, hợp đồng không có công chứng, chứng thực thì người mua không thể hoàn thành thủ tục đăng kí quyền sở hữu nhà. Như vậy, câu hỏi đặt ra là pháp luật sẽ xử lí như thế nào trong trường hợp trên? Đây là vấn đề xảy ra nhiều trong thực tế đời sống và nếu giải quyết theo cách căn cứ vào quy định của BLDS 2005 thì vụ án không được giải quyết triệt để, gây khó khăn trong việc giải quyết cũng như sự không đồng tình với cách giải quyết đó của các bên tham gia GDDS.
    c. Hậu quả pháp lí của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Tại điều 137 BLDS 2005 quy định hậu quả pháp lí của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức có đặt ra vấn đề: “ khôi phục lại tình trạng ban đầu”, đặt trước vấn đề “ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” . “ Nhưng nếu theo lôgic về mặt trình tự thì chỉ có thể khôi phục lại tình trạng ban đầu sau khi đã hoàn trả lại tài sản đã nhận không? Đồng thời, nhiều trường hợp “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” không đủ để “khôi phục lại tình trạng ban đầu””[9] như khi tài sản hoàn trả bị hư hỏng, hủy hoại hay được khai thác, xây dựng, sửa chữa…hoặc tài sản được tu sửa, xây dựng, cải tạo làm tăng giá trị. Trong trường hợp thứ nhất, bên làm hư hại tài sản có thể cải tạo, phục hồi lại được. Nhưng trong trường hợp thứ hai, khi tài sản đã được tu sửa và vấn đề đặt ra ở đây là có cần khôi phục tài sản trở lại trạng thái ban đầu khi tài sản đó đã được làm tăng giá trị lên. Chính điều đó đã không làm phát huy hiệu quả về mặt kinh tế, cũng như sự hợp lí cho cách giải quyết của tòa.
2. Thực trạng về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức hiện nay
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các GDDS trong xã hội cũng ngày càng phát triển và diễn biến phức tạp. Cùng với sự phát triển đó là sự gia tăng nhanh các tranh chấp này do quyền lợi của các chủ thể tham gia giao dịch hoặc quyền và lợi ích của cộng đồng bị ảnh hưởng do việc thực hiện không đúng, không đủ các quy định của pháp luật. Tranh chấp trong GDDS do không tuân thủ quy định về hình thức diễn ra theo hướng ngày càng tăng do các bên thỏa thuận kí với nhau hợp đồng nhưng không tuân thủ các quy định về hình thức nhất là trong lĩnh vực mua bán, chuyển quyền sở hữu đất.
Thực tiễn hiện nay GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức chiếm số lượng án tương đối hạn chế trong tổng số các án về GDDS được đưa ra giải quyết tại tòa. Cụ thể:
Bảng số liệu thống kê số lượng các bản án về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Năm
Sơ thẩm
Phúc thẩm
Các vụ án DS
GDDS do không tuân thủ quy định về hình thức
Các vụ án DS
GDDS do không tuân thủ quy định về hình thức
2010
73191
195
9404
34
2011
81438
201
9983
27
2012
85853
229
9417
29
( Nguồn: Tòa án nhân dân Tối cao)
Qua bảng số liệu trên ta thấy số lượng án liên quan đến GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức chiếm một số lượng án rất hạn chế. Tại phiên tòa sơ thẩm, cao nhất đạt 299 vụ ( 2012 ), còn trong phiên tòa phúc thẩm cao nhất là 34 ( 2010 ). Mặc dù chiếm số lượng án ít trong tổng số bản án về DS nhưng ngược lại GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức ở phiên tòa sơ thẩm lại có sự tăng lên về số lượng. Thông thường các bên khi xảy ra tranh chấp thường cố tìm cách giải quyết trên cơ sở thương lượng với nhau. Nếu không đạt được kết quả  thì mới đưa nhau ra tòa giải quyết. Hay nhiều trường hợp các bên kí hợp đồng mua bán, chuyển nhượng bất động sản nhằm chốn tránh nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước. Số lượng án ít nhưng đa phần là phức tạp, chủ yếu liên quan đến các giao dịch về đất, nhà ở, hay tài sản có giá trị. Do đó, tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc còn gặp nhiều khó khăn do quy định của pháp luật không rõ ràng. Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy số lượng bản án  phúc thẩm có số lượng giảm, chủ yếu chỉ dừng lại ở cấp sơ thẩm do các bên đã đạt được mục đích và không kháng cáo. Đồng thời cũng phải kể đến trình độ của các thẩm phán đã được nâng cao trong việc giải quyết các vụ án một cách hợp tình, hợp lí nhất và đem lại sức thuyết phục cao cho các bên tham gia.
     e. Ví vụ cụ thể về Bản án số 09/ DSST ngày 5-12-2007 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định liên quan đến GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
- Các bên tham gia vụ việc
Nguyên đơn: ông Lê Trần Tiến – Địa chỉ: huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Bị đơn: 1, Ông Nguyễn Văn Nam – Địa chỉ: huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
                       2, Bà Lê Thị Vân Anh – Địa chỉ: huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
* Tóm tắt vụ việc
Bà Nguyễn Thị Thanh có chồng là ông Lê Trần Tiến có hai đứa con: một trai, một gái: Lê Thanh Hải và Lê Phương Thảo. Bà công tác tại bưu điện huyện Hải Hậu, Nam Định. Năm 1995 bà Thanh được bưu điện cấp cho diện tích đất là 200m2 đất ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Sau khi được đất, năm 1998 vợ chồng ông bà Thanh và Lê Trần Tiến làm nhà trên thửa đất này cho đến cuối năm 1998 thì xong. Đến tháng    12 – 2001 ông Tiến đi xuất khẩu lao động ở Nhật Bản, thời gian lao động tại nước ngoài ông Tiến vẫn thường xuyên liên lạc với vợ con.
Trong khi ông Tiến lao động ở nước ngoài, bà Nguyễn Thị Thanh ở nhà do làm ăn thua lỗ và một mình nuôi hai đứa con hoàn cảnh rất khó khăn. Nên bà đã quyết định trao đổi đất của gia đình mình đang sửa đổi là 200m2 được bưu điện cấp, cùng toàn bộ nhà và công trình trên đất với diện tích đất 90m2 với ông Nguyễn Văn Nam và bà Lê Thị Vân Anh để lấy số tiền thanh toán đó để trang trải cuộc sống. Lưu ý, trước khi thực hiện việc trao đổi bà Thanh có chứng minh vợ chồng ông Nam là quyền sở hữu với diện tích đất 200m2 và toàn bộ nhà và công trình trên đất là của riêng bà không liên quan đến ông Tiến chồng bà. Ngoài ra bà còn nói đã được sự đồng ý của ông Tiến trong giao dịch này nên có vấn đề gì xảy ra bà hoàn toàn chịu trách nhiệm. Việc trao đổi diện tích cũng như những tài sản ở trên đất của hai gia đình được thực hiện vào ngày 15 – 4 – 2005 bằng một hợp đồng viết tay, không có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chỉ có chữ kí của các bên gồm: bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Văn Nam và bà Lê thị Vân Anh. Theo hợp đồng này thì bà Thanh trao đổi diện tích đất 200m2 của mình cho vợ chồng ông Nguyễn văn Nam để đổi lại 90m2 ( trên đất có ngôi nhà mái bằng ) của vợ chồng ông Nam và 100.000.000 đồng tiền thanh toán cho cả nhà và phần đất còn lại. Các bên thực hiện những gì mà hợp đồng đã ghi cho đến năm 2006 ông Lê Trần Tiến chồng bà Thanh từ Nhật trở về. Ông cho rằng việc bà Thanh tự ý trao đổi diện tích đất trên mà không hỏi ý kiến ông là không được, bên cạnh đó ông cho rằng hợp đồng mua bán này là không đúng theo quy định của pháp luật vì không có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì những lẽ trên ông Tiến muốn đòi lại toàn bộ diện tích đất và nhà đã trao đổi. Ngoài ra ông Tiến còn đề nghị Tòa án buộc ông Nam, bà Vân Anh bồi thường những thiệt hại cho ông xuất phát từ giao dịch chuyển nhượng, đổi nhà đất trái pháp luật giữa vợ ông và ông Nam, bà Vân Anh, cụ thể:
Hợp đồng vô hiệu từ năm  2005 nhưng ông Nam, bà Vân Anh vẫn chiếm giữ khai thác từ năm 2005 đến năm 2007 là hai cửa hàng nhân 1.500.000 đồng/ tháng nhân 20 tháng = 33.000.000 đồng.
* Cách giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Xét thấy nguồn gốc tài sản huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định của bưu điện huyện Hải Hậu phân cho chị  Nguyễn Thị Thanh năm 1995 với diện tích 200m2. Toàn bộ công trình và nhà xây dựng trên đất do ông Tiến và bà Thanh xây dựng năm 1998 là hoàn toàn hợp pháp. Diện tích đất của vợ chồng ông Nam là 90m2 được dùng để trao đổi cũng được xã chứng nhận là hợp pháp.
Xét phần lỗi làm cho GD vô hiệu: bà Nguyễn Thị Thanh vợ của ông Tiến có 70% lỗi vì: thứ nhất bà Thanh đã cam kết ông Tiến đi lao động xa đã giao hoàn toàn quyền quyết định với diện tích đất trên, cũng như toàn bộ nhà và công trình xây dựng trên đất nếu sau này xảy ra vấn đề tranh chấp gì thì bà xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật nên lỗi của bà nhiều hơn. Còn đối với vợ chồng ông Nam khi mua bán, chuyển nhượng nhà đất biết là không có mặt ông Tiến mà vẫn chấp nhận và kí vào hợp đồng nên cũng có một phần lỗi, nhưng ít hơn phía bà Thanh ( cụ thể chịu 30% ). Và cả hai đều có lỗi không mang hợp đồng đi chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Từ những lẽ trên Tòa quyết định: do giao dịch bị tuyên vô hiệu nên buộc các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu.
+ Buộc vợ chồng ông Nam phải trả lại nhà, công trình trên tổng diện tích 200m2 tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, cùng các giấy tờ liên quan đến nhà đất cho ông Lê Trần Tiến và bà Nguyễn Thị Thanh. Hai ông bà Tiến, Thanh có toàn quyền sử hữu toàn bộ nhà đất trên.
+ Buộc vợ chồng ông Tiến, bà Thanh phải hoàn lại cho vợ chồng ông Nam 26.279.000 đồng tiền cải tạo, xây dựng nhà trên đất đó, và trả lại cho vợ chồng ông Nam nhà, công trình trên tổng số diện tích 90m2  tại huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.  Theo đó, ông Nam, bà Vân Anh có quyền sử hữu toàn bộ diện tích đất 90m2 cũng như tài sản trên đất.
Buộc bà Nguyễn Thị Thanh phải trả lại cho vợ chồng ông Nam số tiền chuyển nhượng nhà đất 100.000.000 đồng, và tiềncải tạo, xây dựng nhà trên đất đó là 26.279.000 đồng. Còn yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông Lê Trần Tiến là không có căn cứ nên không được chấp nhận. Ngoài ra Tòa còn tuyên về phần án phí của các bên.
* Nhận xét.
Dựa vào kiến thức đã được học em xin nhận xét về vụ án như sau: Trong vụ việc này Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng và trao đổi nhà đất giữa các bên tham gia ở trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. tòa đã căn cứ vào  ( khoản 2, điều 122; khoản 2, điều 124; khoản 2, điều 401; khoản 2 điều 463; điều 450; BLDS Việt Nam 2005 ). Do đó, theo quy định của pháp luật: hợp đồng chuyển nhượng, trao đổi nhà đất theo quy định của pháp luật về hình thức phải được soạn thảo bằng văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng kí.
Xét hợp đồng chuyển nhượng, đổi nhà đất ngày 15 – 4 – 2005 giữa bà Nguyễn Thị Thanh với vợ chồng ông Nguyễn Văn Nam và bà Lê Thị Vân Anh là không đúng pháp luật cả về nội dung và hình thức.
+ Về nội dung thì bà Thanh tự ý chuyển nhượng tài sản chung của vợ chồng  mà không có sự tỏa thuận với ông Lê Trần Tiến là không đúng.
+ Về hình thức: hợp đồng là thức viết tay không có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Áp dụng khoản 2, điều 137 BLDS 2005, tiểu mục 2.4, mục 2, phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ/ HHĐTP ngày 16/4/2003 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao xác định GDDS giữa bà Nguyễn Thị Thanh với vợ chồng ông Nguyễn Văn Nam là vô hiệu.
Qua đó, ta có thể xác định được lỗi của các bên tham gia giao dịch trên là không tuân thủ quy định về hình thức chuyển nhượng nhà đất theo quy định của pháp luật hiệu. Và đây chỉ là một vụ kiện rất nhỏ trong rất nhiều vụ kiện khác liên quan đến viecj chuyển nhượng quyền sở hữu đất mà không lập thành văn bản hoặc lập văn bản mà không có chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
III. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và một số kiến nghị
1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
- Cần xem xét, rà soát, cân đối và thống nhất giữa các quy định của các văn bản pháp luật về các quy định GDDS nói chung và GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức nói riêng. Từ sự rà soát đó, nhà nước cần có hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp luật, giúp cho việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người dân được thuận tiện hơn.  Thêm vào đó, các cơ quan chức năng cũng cần có những văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể đối với những quy định của BLDS 2005 do không tuân thủ quy định về hình thức. Để có được một một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cần phải có những quy định chặt chẽ, cụ thể. Chính sự hoàn thiện về pháp luật sẽ làm hạn chế những quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về cùng một vấn đề.
- Cần có phương hướng nâng cao chất lượng xét xử về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức thông qua việc đào tạo chuyên môn xét xử của các thẩm phán. Điều này có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình thụ lí vụ án cũng như xét xử. Nó đòi hỏi các thẩm phán không chỉ xử căn cứ vào các quy định của BLDS 2005 mà nhạy bén trong việc căn cứ vào các quy định khác của pháp luật và đưa ra những phán quyết thuyết phục, hợp tình, hợp lí.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân, khuyến khích họ có ý thức tham gia bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức, nhà nước, chống lại các hành vi xâm phạm quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Từ đó nhằm hạn chế tới mức tối đa việc các chủ thể xác lập GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức nhằm chốn tránh nghĩa vụ với nhà nước.
2. Một số kiến nghị
Một là, quy định về hình thức:GDDS là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quền, nghĩa vụ DS. Trong quá trình đàm phán để xác lập giao dịch, mỗi chủ thể đều có ý chí riêng. Theo nguyên tắc, các bên có quyền lựa chọn ý chí của họ và đó được coi là một trong những nội dung của tự do giao dịch – tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Trong khi đó, pháp luật quy định “ Hình thức GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định” ( khoản 2, điều 122 BLDS ) điều này chưa logic và chặt chẽ. Trong thực tế, không phải lúc nào các bên chủ thể cũng chỉ sử dụng một hình thức duy nhất để giao kết hợp đồng. Mặt khác, pháp luật cũng không cấm, không có quy định nào bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng bằng một hình thức duy nhất. Theo nguyên tắc thì giao dịch là sự thỏa thuận thì đương nhiên các bên có quyền thỏa thuận về hình thức của giao dịch chứ không nhất thiết phải tuân theo quy định của pháp luật. Pháp luật nên chăng chỉ quy định hạn chế một số loại giao dịch được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bên cạnh đó, BLDS quy định GDDS vi phạm bất cứ điều cấm nào về hình thức cũng bị tuyên bố vô hiệu, không phân biệt vi phạm đó là nghiêm trọng hay không. Điều này hoàn toàn là không cần thiết vì trong một số trường hợp có thể sử dụng chế tài hành chính hoặc bồi thường thiệt hại, chỉ có những vi phạm nghiêm trọng dẫn đến phạm tội mới cần tuyên bố vô hiệu. Qua thực tiên cho thấy, BLDS cần phải xem xét lại một số quy định về xác lập GDDS liên quan đến hình thức.
Hai là, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS vô hiệu là hai năm, quy định này có điểm bất cập là: thời hiệu yêu cầu là hai năm, bắt đầu từ thời điểm xác lập là không phù hợp và không bảo vệ được triệt để quyền lợi chính đáng của bên bị vi phạm bởi trên thực tế đối với bất cứ hp đồng nào sau khi được xác lập, người xác lập ngay lập tức không thể biết hợp đồng mà họ xác lập không có bất cứ một khiếm khuyết nào hoặc biết nhưng không thể khắc phục. Và do vậy nếu tính thời hiệu kể từ ngày xác lập giao dịch thì quyền và lợi ích của họ có thể không được bảo vệ vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Do đó, cần phải quy định cụ thể thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về  hình thức là hai năm, kể từ thời điểm “ xác lập giao dịch dân sự đối với giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức của giao dịch”[10].
Ba là, hậu quả pháp lí của GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức được quy định tại điều 137 BLDS 2005.  Quy định mang tính nguyên tắc của điều 137 BLDS về mặt ngôn từ là rõ ràng nhưng việc các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu” không phải trong trường hợp nào cũng có thể thực hiện được bởi đối tượng của hợp đồng là tài sản không còn giữ được tình trạng như ban đầu hay đối tượng của hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện…nên việc qui định “các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” không phải là đơn giản.  Ngoài ra, “Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường” nhưng cụm từ “Bên có lỗi” có thể gây ra sự hiểu nhầm là việc bồi thường thiệt hại chỉ do một trong các bên xác lập, thực hiện hợp đồng phải gánh chịu bởi người thứ ba không phải là một bên trong hợp đồng. Vì vậy, khoản 2, điều 137 BLDS đoạn cuối nên được sửa là: “Người có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
  KẾT LUẬN
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu những vấn đề lí luận và thực tiễn về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức ta thấy vẫn còn nhiều bất cập mang tính tiêu cực cần được đề cập tới và sửa đổi góp phần hoàn thiện BLDS. Thực tiễn cho thấy việc vi phạm khiến cho GDDS vô hiệu nói chung và GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức nói riêng vẫn còn tồn tại khá nhiều đòi hỏi phải có những biện pháp tích cực để không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của mọi người trong xã hội. Đó chính là thái độ tích cực làm cho nền pháp luật nước ta ngày càng phát triển bền vững hơn.
        








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét