LỜI NÓI ĐẦU
Vai trò của Chính phủ ở bất cứ quốc gia nào
cũng thể hiện rõ rệt trong năng lực quản lý hành chính nhà nước, có tính quyết
định đối với sự vận động và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội của quốc
gia. Lập pháp chỉ vạch ra hành lang pháp lý và giám sát, kiểm soát hành pháp,
còn trên cơ sở luật, các quá trình của đời sống xã hội vận động và phát triển
như thế nào tùy thuộc vào khả năng của Chính phủ sử dụng quyền hành pháp, quản
lý hành chính nhà nước. Trong xã hội hiện đại, vai trò của Chính phủ với tư
cách là cơ quan hành pháp không chỉ là thực hiện luật hay áp dụng luật theo
cách thụ động, giản đơn. Trái lại, Chính phủ ngày nay phải là Chính phủ năng động,
có khả năng cạnh tranh với các Chính phủ khác trong việc thực hiện quản lý, thể
hiện rõ và trội trong khả năng hoạch định và thực hiện chính sách đúng đắn, hiệu
quả, trong khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, dân chủ, quyền con
người và các mặt khác của đời sống xã hội.Vì vậy em xin chọn đề tài : “Vị trí,
tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn bản Hiến pháp Việt Nam ” để làm rõ
hơn về Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
NỘI DUNG
I.KHÁI
QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH PHỦ QUA BỐN BẢN HIẾN PHÁP
Việc thành lập và hoàn thiện các quy định
pháp luật về chính phủ là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Hiến pháp năm 1946
ra đời trong bối cảnh Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh (người
sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam) vừa giành được độc lập. Đó cũng là bối cảnh mà
tư tưởng lập hiến ở Việt Nam đã có nhiều sự trưởng thành, với nhiều khuynh hướng
lập hiến khác nhau của các nhà trí thức, nhà hoạt động xã hội và các đảng phái
khác nhau. Tại thời điểm đó, ít nhất là trong giới trí thức Việt Nam, những hiểu
biết về sự tồn tại của các mô hình chính thể như đại nghị, tổng thống hoặc Xô
Viết là tương đối đầy đủ.Trong số 70 điều của Hiến pháp 1946, có tới 14 điều
(chiếm 20%) quy định trực tiếp về Chính phủ với quan niệm Chính phủ bao gồm cả
nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước). Các quy định này có thể phần nào phản ánh
ưu tư của các nhà lập hiến lúc đó về việc xây dựng một chính phủ mạnh mẽ và
sáng suốt, để dẫn dắt dân tộc trong bối cảnh lịch sử được coi là “ngàn cân treo
sợi tóc”, “thù trong, giặc ngoài” hiện
diện ở khắp nơi.
Hiến pháp năm 1959 ra đời trong bối cảnh tương
đối đặc biệt khi miền Bắc đã xác định rõ chủ trương theo đuổi mô hình xã hội chủ
nghĩa kiểu Xô Viết còn đất nước thì đang ở trong tình trạng chia cắt.Cũng cần
lưu ý giai đoạn này, thông tin của miền Bắc về thế giới phương Tây cực kỳ hạn
chế và khá phiến diện.Trong bối cảnh đó, không có gì là ngạc nhiên khi dấu ấn
Xô Viết trong mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1959, so với
Hiến pháp năm 1946 đã rõ rệt hơn hẳn.Hiến pháp năm 1959 quy định về Chính phủ
trong 7 điều (chiếm khoảng hơn 6% số điều của Hiến pháp) từ Điều 71 đến Điều 77. Chính phủ được gọi
tên chính thức là “Hội đồng Chính phủ” để nhấn mạnh tính tập thể của chính phủ
thành phần chính phủ chỉ gồm: Thủ tướng, các phó thủ tướng, bộ trưởng và các ủy
ban nhà nước.Phù hợp với tính chất và chức năng của chính phủ đã được quy định
tại Điều 71 nhiệm vụ quyền hạn của hội đồng chính phủ đã được thay đổi và bổ
sung. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ nhất
đã thông qua luật tổ chức Hội đồng chính phủ nhằm xác định rõ vị trí, chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn và chế độ tránh nhiệm trong hoạt động của Hội đồng
Chính phủ.
Sau chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử năm 1975, Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo đất nước tiến theo mô hình chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa tập
trung. Nói cách khác, đây là Hiến pháp của thời kỳ mà cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ coi như đã hoàn thành. Thời kỳ tiếp theo trong sự phát triển của đất nước
được coi là “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”.Trong
Hiến pháp năm 1980, các quy định về Chính phủ (Hội đồng bộ trưởng) bao gồm 10
điều (từ Điều 104 đến Điều 113).Đáng lưu ý rằng, Hiến pháp năm 1980 được ban
hành trong bối cảnh cả nước đã thống nhất và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên Xô đã ban hành Hiến pháp năm 1977. Với bối cảnh như vậy, các quy định về tổ
chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1980 càng chịu nhiều hơn sự ảnh hưởng
từ mô hình Xô Viết theo Hiến pháp Liên Xô năm 1977. Luật tổ chức Hội đồng bộ
trưởng ngày 4/7/1981 đã khẳng định : Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành và
hành chính của Quốc Hội- quy định này chi phối đế việc xác định vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trật tự hình thành và chế độ chịu trách nhiệm của Hội
đồng bộ trưởng trong bộ máy nhà nước.
Hiến pháp năm
1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới bước đầu của đất nước ta, trong đó, đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất được
coi là một trong những nhiệm vụ then chốt. Thời điểm ban hành Hiến pháp năm
1992 khá đặc biệt. Đó là thời điểm mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã chứng
minh rõ sự bất cập của mình, đưa đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng trong những năm của thập niên 1980. Đây là cũng là thời điểm hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, sự thắng
thế của mô hình phát triển kinh tế dựa trên thị trường đang lên ngôi. Việt Nam
lúc đó có thể trở thành ốc đảo trong một khu vực phát triển kinh tế năng động
và mạnh mẽ (khu vực Đông Á và khu vực Đông Nam Á) nếu như nhà nước không có sự
thay đổi chính sách kinh tế, xã hội và những đổi mới chính trị có tính căn bản
và cần thiết.
Các quy định của
Hiến pháp về Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ với các thiết chế khác
trong bộ máy nhà nước cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu,
đòi hỏi của tình hình mới.Tuy nhiên, với chủ trương, đổi mới chứ không đổi màu,
mô hình nhà nước Việt Nam trong Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục được thiết kế
theo mô hình “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Theo đó, tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân.Sau 10 năm thực hiện,Hiến pháp 1992 được sửa đổi vào năm
2001, trong đố những quy ddinhj tại điều 112, 114, 116 về chính phủ đã được sửa
đổi bổ sung. Đây là cơ sở cho Quốc Hội khóa X, kì họp thứ 10 thông qua luật tổ
chức chính phủ ngày 25/12/2001.
II. Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn
bản Hiến pháp
1.
Vị trí, tính chất của Chính phủ
Theo hiến pháp
1946 tại điều 43 quy định: “cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.” Nói cách khác, Chính phủ không được quy định là
cơ quan chấp hành của Quốc hội (Nghị viện).Chính phủ là cơ quan có tính tập thể,
bao gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội các), Mô hình tổ chức Chính phủ
trong giai đoạn này, được định: “Chính phủ được Nghị viện lập ra nhưng không phải
là cơ quan chấp hành của Nghị viện.” Đây là mô hình trong đó, Chính phủ có tính
độc lập rất lớn đối với cơ quan lập pháp (Quốc hội). Trong mô hình ấy, Chính phủ
có “một cấu trúc khá đặc biệt, vừa thể hiện một bộ máy hành pháp trong mô hình
Cộng hòa Tổng thống và cả trong mô hình Cộng hòa Nghị viện”.Theo đó, “… Chính
phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội
các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng” (Điều thứ
44).
Điều 71 Hiến
pháp năm 1959 quy định: “Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Như vậy, với quy định kể trên, tính chất tập thể của
Chính phủ được tiếp tục khẳng định.Ngoài ra, Chính phủ được xác định rõ là “cơ
quan chấp hành của Quốc hội” đồng thời là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”.
Chính phủ được tổ chức theo hình thức hội đồng và trở thành cơ quan làm việc
theo chế độ tập thể. Chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng trước Quốc hội
như Hiến pháp 1946 không còn được quy định. Thay vào đó là chế độ chịu trách
nhiệm tập thể của Hội đồng Chính phủ. Tuy nhiên, Hiến pháp không còn quy định
cho Quốc hội quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với tập thể Chính phủ hoặc với từng
thành viên Chính phủ.
Tư tưởng toàn bộ
quyền lực nhà nước thuộc về Quốc hội chính thức được thể chế hóa trong Hiến
pháp (Chính phủ chỉ là một cơ quan của Quốc hội dù vẫn giữ một sự độc lập nhất
định ở khía cạnh là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”). Không có quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu Chính phủ (Thủ tướng) với tư cách là
một cơ quan có tính độc lập tương đối với Chính phủ (Hội đồng Chính phủ).
Trong Hiến pháp
năm 1980, chế định Chính phủ được cải cách theo hướng “tăng cường tính thống nhất
và tập trung quyền lực vào Quốc hội” thể hiện bằng những điểm cơ bản như: Tên gọi
Hội đồng Chính phủ đã được thay bằng “Hội đồng Bộ trưởng”; Tính chất của Chính
phủ thêm một lần thay đổi theo hướng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) chỉ còn là
“cơ quan chấp hành” và “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất” của Quốc hội (chứ
không phải của cả quốc gia nữa).Nói cách khác, Chính phủ đã thuần túy trở thành
“một cơ quan trực thuộc Quốc hội”.
Cụ thể, Điều 104 Hiến pháp năm 1980 quy định
như sau “Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất”
Địa vị pháp lý của
người đứng đầu Chính phủ (Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) khá “mờ nhạt.” Tuy
nhiên, trách nhiệm của Bộ trưởng lại được quy định ngay trong bản thân Hiến
pháp. Cụ thể, Điều 112 Hiến pháp 1980 quy định “Mỗi thành viên Hội đồng bộ trưởng
chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước Quốc hội, Hội đồng Nhà
nước, Hội đồng bộ trưởng, và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập
thể về hoạt động của Hội đồng bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.”
Điều 109 Hiến
pháp năm 1992 quy định như sau: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chính phủ tiếp tục được khẳng định
“là cơ quan chấp hành của Quốc hội” giống như quy định trong Hiến pháp năm 1959
và Hiến pháp năm 1980. Chính phủ cũng tiếp tục được khẳng định là “cơ quan hành
chính Nhà nước”, chính xác hơn, Chính phủ là “cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất.” Nhưng khác với quy định của Hiến pháp năm 1980, Chính phủ không chỉ giản
đơn là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Quốc hội” nữa mà đã được quy định
rõ ràng là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Quy định này khá tương đồng với quy định về tính chất và vị
trí của Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959.Theo điều 1 – Luật tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua hai điều trên ta thấy Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội, vừa
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội thể hiện ở
:
Thứ
nhất, Quốc hội thành lập ra Chính phủ, quy định cơ
cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cho Chính phủ . Chính phủ hoạt động
dưới sự giám sát của Quốc hội, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội .
Thứ
hai, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và
báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước.
Thứ
ba, thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám
sát của Quốc hội, có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm,cách chức theo quy định
của pháp luật, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội .
Thứ
tư, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước, quy định vào trong Nghị quyết của Quốc hội à Chính phủ tổ chức, triển
khai thực hiện có hiệu quả trên cơ sở cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật,
phân công, đề ra các biện pháp thích hợp, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên
thực tế.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thể
hiện ở :
Một
là, Chính phủ thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
hành chính nhà nước trên phạm vi toàn lãnh,bao trùm toàn bộ các lĩnh vực hoạt động
nhà nước và đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quốc phòng,
y tế, giáo dục,….. thuộc chức năng của Chính phủ được Hiến pháp quy định
Hai
là, Bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung
ương đến cơ sở
Ba
là, bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp
và pháp luậttrong tất cả các cơ quan nhà
nước tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội, đôn vị vũ trangvaf mọi công dân.
Bốn
là, Chính phủ đứng đầu hệ thống cơ quan nhà nước,
thực hiện vai trò lãnh đạo,chỉ đạo,hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân như vậy sẽ
đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước.
Năm
là, về mặt hành chính nhà nước quyết định của chính
phủ là quyết định cao nhất quyết định cuối cùng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân .
Như vậy, Chính phủ đã có tính độc lập tương đối so với Quốc Hội trong lĩnh
vực hành chính nhà nước, quản lí nhà nước.Đây là sự tiếp thu hạt nhân hợp lý của
học thuyết phân quyền trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo
quyền lực nhà nước là thống nhất nhưn có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhưng Hiến pháp
năm 1946 lại quy định “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Theo Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc chung tổ chức
quyền lực Nhà nước là xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân và
thể hiện rõ sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Đến
Hiến pháp năm 1959, tại điều 71 quy định : “ Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp
hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính cao nhất
của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Những thay đổi trong bộ máy nhà nước thời
kỳ này khẳng định quan điểm mới về tổ chức bộ máy nhà nước, theo xu hướng quyền
lực nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Và theo điều này thì một mặt
Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mặt khác là cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của nước ta, đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước, đảm nhận một chức năng hoạt động độc lập – hoạt động hành chính Nhà nước.
Từ đây có thể thấy rằng theo Hiến pháp năm
1959 Hội đồng Chính phủ có tính độc lập tương đối. Hiến pháp năm 1959 thể hiện
rõ nguyên tắc quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội – cơ quan
quyền lực cao nhất của nhân dân và cũng cho ta thấy rằng Hội đồng Chính phủ được
tổ chức hoàn toàn theo mô hình Chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩa khác với
Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946 xây dựng theo mô hình tư sản. Kế thừa quy định
của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 một lần nữa khẳng định tính chất chấp
hành của Hội đồng bộ trưởng trước Quốc hội song chức năng của cơ quan này đã có
sự thay đổi và vị trí cũng giống như Hiến pháp năm 1959. Theo Hiến pháp năm
1980 và Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981 : “Hội đồng bộ trưởng là Chính
phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành
chính cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ”. (Điều 104). Tuy nhiên
Hội đồng bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ.
Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng bộ trưởng là
cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất. Với quy định này, chúng ta thấy tính độc lập tương đối của Chính phủ
với Quốc hội không còn nữa. Quy định này phản ánh quan niệm một thời cho rằng:
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp và giám sát – phải thực sự trở thành “tập thể hành động”. Hội
đồng bộ trưởng được tổ chức theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành – hành chính
Nhà nước cao nhất của Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ của nó là thực hiện những
hoạt động chấp hành – hành chính được Quộc hội giao cho.Hội đồng bộ trưởng là
Chính phủ, do Quốc hội lập ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta (chứ không phải
Quốc hội). Nói cách khác nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Nếu như Hiến
pháp năm 1946 không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, quyền
hành chính Nhà nước cao nhất đứng riêng rẽ như một cành quyền lực độc lập thì
các Hiến pháp sau này 1959, 1980 đã thức nhận tính phụ thuộc của hành pháp và lập
pháp, chí ít là trong lĩnh vực chấp hành. Đặc biệt Hiến pháp 1980 còn thừa nhận
thật rõ, không những Chính phủ là cơ quan chấp hành, mà còn là hành chính cao
nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Phải đến Hiến pháp năm 1992 ta mới
có thể thấy được một quy định rõ ràng. Theo Hiến pháp năm 1992 được gọi đơn giản
là Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với thay đổi về tên gọi, Chính phủ có nhiều thay đổi
theo hướng đổi mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời những
đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta
chúng ta thấy những quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất
định. Hiến pháp năm 1946 xây dựng Chính phủ theo mô hình chính phủ tư sản nên
không quy định Chinh phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp năm 1980
xây dựng Chính phủ ( Hội đồng Bộ trưởng ) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ
nghĩa. Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước khác do Quốc hội lập
ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Vì vậy Hiến pháp năm 1980
quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính
cao nhất của Quốc hội . Quy định này làm cho Chính phủ thiếu tính độc lập tương
đối trong lĩnh vực hoạt động hành chính Nhà nước. Khắc phục nhược điểm này, Hiến
pháp năm 1992 quay về với Hiến pháp năm 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền,
nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân
chia chức năng rành rọt giữa các cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp và tư
pháp.. Khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhưng là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm
chỉ rõ tính chất của Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội. Chính
phủ do Quốc hội thành lập ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội
hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Tuy
nhiên, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, đây là quan điểm có sự đổi mới so với Hiến pháp năm 1980,
nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong hoạt động quản lí nhà nước.
Chính phủ thực
hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân.Quy định của
Hiến pháp năm 1992 về vị trí, tính chất của Chính phủ là sự kế thừa có chọn lọc
quy định của các Hiến pháp Việt Nam, đồng thời phù hợp quan điểm chung của các
nhà nước hiện đại. Để Chính phủ thật sự là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức, trật tự hình thành và các hình thức hoạt động của Chính phủ cho phù hợp
yêu cầu công cuộc đổi nới đất nước.
2.
Chức năng của Chính phủ
Vai trò của
Chính phủ - cơ quan hành pháp trong quản lý hành chính nhà nước được thể hiện
qua các chức năng (hay là phương diện hoạt động cơ bản) của nó. Ngược lại, qua
việc thực hiện các chức năng, Chính phủ thể hiện vai trò của mình. Chức năng của
mỗi Chính phủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kiểu nhà nước (xã hội chủ nghĩa hay
tư bản chủ nghĩa), vào chế độ chính trị cụ thể và các điều kiện kinh tế, xã hội,
văn hóa… cụ thể. Có thể phân chức năng của Chính phủ thành các chức năng theo đối
tượng tác động của Chính phủ, đó là các chức năng: chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa, trật tự xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Các chức năng của
Chính phủ cũng có thể phân thành nhóm chức năng đối nội và nhóm chức năng đối
ngoại… Chức năng của Chính phủ là khái
niệm trừu tượng. Tính cụ thể của các chức năng thể hiện trong các nhiệm vụ, quyền
hạn của nó. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong hiến pháp,
luật cụ thể hóa hiến pháp.
Theo hiến pháp 1946 chức năng của Chính phủ
vô cùng quan trọng gắn liền với chức
năng của chủ tịch Hồ Chí Minh.Chức năng của chính phủ được cụ thể hóa thành nhiệm
vụ quyền hạn quy định tại Điều thứ 52 Hiến pháp năm 1946, Chính phủ có những
quyền hạn cơ bản sau:
- Quyền thi hành pháp luật: Thi hành các đạo
luật (và quyết nghị) của Nghị viện;
- Quyền tham gia xây dựng luật: quyền đề
nghị những dự án luật ra trước Nghị viện (đề nghị những dự án sắc luật ra trước
Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt).
- Các quyền khác: Bãi bỏ những mệnh lệnh và
nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần; bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên
trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn; lập dự án ngân sách hàng năm.
Theo Hiến pháp
1959 chức năng của chính phủ phủ có sự cụ thể hóa và phù hợp với vị trí, tính
chất và điều kiện hoàn cảnh để thực hiện chức năng quản lý hành chính của mình
cũng được cụ thể hóa trong nhiệm vụ quyền hạn của chính phủ.
Nhưng Hiến pháp
1980 quy định cụ thể chức năng của chính phủ tại điều 104 “Hội đồng bộ trưởng
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước; tăng cường hiệu lực của bộ
máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành pháp
luật; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; bảo đảm xây dựng chủ nghĩa
xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Hội đồng
bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian
Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà
nước.”
Hiến pháp 1992
quy định rõ chức năng của chính phủ tại điều 109 “Chính phủ thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung
ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”.Cụ thể
hóa tại Điều 112 Hiến pháp năm 1992 thành các nhiệm vụ quyền hạn trong lĩnh vực
kinh tế; khoa học công nghệ, môi trường; văn hóa giáo dục, thông tin thể thao
và du lịch; y tế và xã hội; dân tộc và tôn giáo; quốc phòng an ninh và trật tự,
an toàn xã hội; tổ chức hành chính nhà nước; đối ngoại; lập pháp và hành chính
tư pháp; nhiệm vụ và quyền hạn đối với hội đồng nhân dân tỉnh,, thành phố trực
thuộc trung ương.
Về chức năng, dù
có tên gọi khác qua bốn bản Hiến pháp nhưng Chính phủ đều được xác định là cơ
quan Nhà nước có chức năng hành pháp và Chính phủ còn có chức năng quan trọng
là quản lí đất nước theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật.Chức năng quản lý
nhà nước của Chính phủ có những đặc thù sau:
Hoạt động quản
lý nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao chùm toàn bộ lĩnh vực được quy định.Nếu
như các cơ quan nhà nước khác muốn thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ được
phân công đều phải thực hiện quản lý hành chính nhưng đó không phải hoạt động
chủ yếu mà chỉ là hoạt động hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng được phân công.
Chủ thể duy nhất có chức năng quản lý hành chính nhà nước chỉ có Chính phủ và ủy
ban nhân dân.
Hoạt động quản
lý của Chính pủ bao trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi cả nước: kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại…còn các bộ cơ quan ngang bộ quản
lý nhà nước theo một ngành, một lĩnh vực nhất định được phân công, Ủy ban nhân
dân chỉ thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương nhất định
Đảm bảo sự thông
nhất trong hoạt động quản lý nhà nước, Chính phủ thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt đọng của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc chính phủ và Ủy ban nhân dân.
PHẦN KẾT LUẬN
Quy định của Hiến pháp 1992 về vị
trí, tính chất, chức năng của Chính phủ là sự kế thừ và chọn lọc quy định các
Hiến pháp Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan điểm chung của nhà nước hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh sự kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động hành chính, phải
phân giao cho Chính phủ đầy đủ quyền hạn tương xứng, độc lập và chủ động. Để
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, thích ứng với trình độ hội nhập, hợp tác yêu
cầu đặt ra là tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các
chương trình dự án Quốc gia, đàm phán, kí kết các điều ước Quốc tế với Chính phủ
các nước, tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong nước lãnh đạo hành chính, tổ
chức bộ máy. Sắp tới có sự sửa đổi Hiến pháp, Chính phủ là một chế định quan trọng
trong bộ máy nhà nước cần có sự sử đổi, bổ sung phù hợp với tình hình đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “
Luật hiến pháp Việt Nam ” nhà xuất bản tư pháp , Hà Nội-2006, tr.377-386
2. Pháp luật đại cương – TS Lê Minh Toàn (
Chủ biên ) – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
PGS.TS. Vũ Thư, Viện Nhà nước và Pháp luật,
đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 10 năm 2012.
3.PTS. Luật học. Thái Vĩnh Thắng “Lịch sử lập
Hiến Việt Nam” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 1998.
4. Nguyễn Minh Đoan, “Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” trong Lê Minh Tâm và Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), Giáo
trình Lí luận nhà nước và pháp luật (Hà Nội: NXB Công an nhân dân, 2011),tr106
-110, tr. 446-447.
5.Bùi Xuân Đức, “Đổi mới, Hoàn thiện Bộ máy
nhà nước trong giai đoạn hiện nay”, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội- 2004 ,tr.268-
289.
6. Hiến pháp 1946
7. Hiến pháp 1959
8. Hiến pháp 1980
9. Hiến pháp 1992
10. Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng ngày
4/7/1981
11. LUẬT của Quốc hội số 32/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 về Tổ chức Chính phủ
12.Các Website
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét