Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn bản Hiến pháp Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
Vai trò của Chính phủ ở bất cứ quốc gia nào cũng thể hiện rõ rệt trong năng lực quản lý hành chính nhà nước, có tính quyết định đối với sự vận động và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội của quốc gia. Lập pháp chỉ vạch ra hành lang pháp lý và giám sát, kiểm soát hành pháp, còn trên cơ sở luật, các quá trình của đời sống xã hội vận động và phát triển như thế nào tùy thuộc vào khả năng của Chính phủ sử dụng quyền hành pháp, quản lý hành chính nhà nước. Trong xã hội hiện đại, vai trò của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp không chỉ là thực hiện luật hay áp dụng luật theo cách thụ động, giản đơn. Trái lại, Chính phủ ngày nay phải là Chính phủ năng động, có khả năng cạnh tranh với các Chính phủ khác trong việc thực hiện quản lý, thể hiện rõ và trội trong khả năng hoạch định và thực hiện chính sách đúng đắn, hiệu quả, trong khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, dân chủ, quyền con người và các mặt khác của đời sống xã hội.Vì vậy em xin chọn đề tài : “Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn bản Hiến pháp Việt Nam ” để làm rõ hơn về Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 NỘI DUNG
I.KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH PHỦ QUA BỐN BẢN HIẾN PHÁP
          Việc thành lập và hoàn thiện các quy định pháp luật về chính phủ là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Hiến pháp năm 1946 ra đời trong bối cảnh Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh (người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam) vừa giành được độc lập. Đó cũng là bối cảnh mà tư tưởng lập hiến ở Việt Nam đã có nhiều sự trưởng thành, với nhiều khuynh hướng lập hiến khác nhau của các nhà trí thức, nhà hoạt động xã hội và các đảng phái khác nhau. Tại thời điểm đó, ít nhất là trong giới trí thức Việt Nam, những hiểu biết về sự tồn tại của các mô hình chính thể như đại nghị, tổng thống hoặc Xô Viết là tương đối đầy đủ.Trong số 70 điều của Hiến pháp 1946, có tới 14 điều (chiếm 20%) quy định trực tiếp về Chính phủ với quan niệm Chính phủ bao gồm cả nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước). Các quy định này có thể phần nào phản ánh ưu tư của các nhà lập hiến lúc đó về việc xây dựng một chính phủ mạnh mẽ và sáng suốt, để dẫn dắt dân tộc trong bối cảnh lịch sử được coi là “ngàn cân treo sợi tóc”, “thù trong, giặc ngoài”  hiện diện ở khắp nơi.
 Hiến pháp năm 1959 ra đời trong bối cảnh tương đối đặc biệt khi miền Bắc đã xác định rõ chủ trương theo đuổi mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xô Viết còn đất nước thì đang ở trong tình trạng chia cắt.Cũng cần lưu ý giai đoạn này, thông tin của miền Bắc về thế giới phương Tây cực kỳ hạn chế và khá phiến diện.Trong bối cảnh đó, không có gì là ngạc nhiên khi dấu ấn Xô Viết trong mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1959, so với Hiến pháp năm 1946 đã rõ rệt hơn hẳn.Hiến pháp năm 1959 quy định về Chính phủ trong 7 điều (chiếm khoảng hơn 6% số điều của Hiến pháp)  từ Điều 71 đến Điều 77. Chính phủ được gọi tên chính thức là “Hội đồng Chính phủ” để nhấn mạnh tính tập thể của chính phủ thành phần chính phủ chỉ gồm: Thủ tướng, các phó thủ tướng, bộ trưởng và các ủy ban nhà nước.Phù hợp với tính chất và chức năng của chính phủ đã được quy định tại Điều 71 nhiệm vụ quyền hạn của hội đồng chính phủ đã được thay đổi và bổ sung. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua luật tổ chức Hội đồng chính phủ nhằm xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và chế độ tránh nhiệm trong hoạt động của Hội đồng Chính phủ.
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh  lịch sử năm 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước tiến theo mô hình chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa tập trung. Nói cách khác, đây là Hiến pháp của thời kỳ mà cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ coi như đã hoàn thành. Thời kỳ tiếp theo trong sự phát triển của đất nước được coi là “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”.Trong Hiến pháp năm 1980, các quy định về Chính phủ (Hội đồng bộ trưởng) bao gồm 10 điều (từ Điều 104 đến Điều 113).Đáng lưu ý rằng, Hiến pháp năm 1980 được ban hành trong bối cảnh cả nước đã thống nhất và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên Xô đã ban hành Hiến pháp năm 1977. Với bối cảnh như vậy, các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 1980 càng chịu nhiều hơn sự ảnh hưởng từ mô hình Xô Viết theo Hiến pháp Liên Xô năm 1977. Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng ngày 4/7/1981 đã khẳng định : Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành và hành chính của Quốc Hội- quy định này chi phối đế việc xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trật tự hình thành và chế độ chịu trách nhiệm của Hội đồng bộ trưởng trong bộ máy nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới bước đầu của đất nước ta, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất được coi là một trong những nhiệm vụ then chốt. Thời điểm ban hành Hiến pháp năm 1992 khá đặc biệt. Đó là thời điểm mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã chứng minh rõ sự bất cập của mình, đưa đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng trong những năm của thập niên 1980. Đây là cũng là thời điểm hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, sự thắng thế của mô hình phát triển kinh tế dựa trên thị trường đang lên ngôi. Việt Nam lúc đó có thể trở thành ốc đảo trong một khu vực phát triển kinh tế năng động và mạnh mẽ (khu vực Đông Á và khu vực Đông Nam Á) nếu như nhà nước không có sự thay đổi chính sách kinh tế, xã hội và những đổi mới chính trị có tính căn bản và cần thiết.
Các quy định của Hiến pháp về Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ với các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới.Tuy nhiên, với chủ trương, đổi mới chứ không đổi màu, mô hình nhà nước Việt Nam trong Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục được thiết kế theo mô hình “Nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Theo đó, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.Sau 10 năm thực hiện,Hiến pháp 1992 được sửa đổi vào năm 2001, trong đố những quy ddinhj tại điều 112, 114, 116 về chính phủ đã được sửa đổi bổ sung. Đây là cơ sở cho Quốc Hội khóa X, kì họp thứ 10 thông qua luật tổ chức chính phủ ngày 25/12/2001.
II. Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ qua bốn bản Hiến pháp
1.     Vị trí, tính chất của Chính phủ
Theo hiến pháp 1946 tại điều 43 quy định: “cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.” Nói cách khác, Chính phủ không được quy định là cơ quan chấp hành của Quốc hội (Nghị viện).Chính phủ là cơ quan có tính tập thể, bao gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội các), Mô hình tổ chức Chính phủ trong giai đoạn này, được định: “Chính phủ được Nghị viện lập ra nhưng không phải là cơ quan chấp hành của Nghị viện.” Đây là mô hình trong đó, Chính phủ có tính độc lập rất lớn đối với cơ quan lập pháp (Quốc hội). Trong mô hình ấy, Chính phủ có “một cấu trúc khá đặc biệt, vừa thể hiện một bộ máy hành pháp trong mô hình Cộng hòa Tổng thống và cả trong mô hình Cộng hòa Nghị viện”.Theo đó, “… Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng” (Điều thứ 44).
Điều 71 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Như vậy, với quy định kể trên, tính chất tập thể của Chính phủ được tiếp tục khẳng định.Ngoài ra, Chính phủ được xác định rõ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” đồng thời là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”. Chính phủ được tổ chức theo hình thức hội đồng và trở thành cơ quan làm việc theo chế độ tập thể. Chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng trước Quốc hội như Hiến pháp 1946 không còn được quy định. Thay vào đó là chế độ chịu trách nhiệm tập thể của Hội đồng Chính phủ. Tuy nhiên, Hiến pháp không còn quy định cho Quốc hội quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với tập thể Chính phủ hoặc với từng thành viên Chính phủ.
Tư tưởng toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Quốc hội chính thức được thể chế hóa trong Hiến pháp (Chính phủ chỉ là một cơ quan của Quốc hội dù vẫn giữ một sự độc lập nhất định ở khía cạnh là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”). Không có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu Chính phủ (Thủ tướng) với tư cách là một cơ quan có tính độc lập tương đối với Chính phủ (Hội đồng Chính phủ).
Trong Hiến pháp năm 1980, chế định Chính phủ được cải cách theo hướng “tăng cường tính thống nhất và tập trung quyền lực vào Quốc hội” thể hiện bằng những điểm cơ bản như: Tên gọi Hội đồng Chính phủ đã được thay bằng “Hội đồng Bộ trưởng”; Tính chất của Chính phủ thêm một lần thay đổi theo hướng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng) chỉ còn là “cơ quan chấp hành” và “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất” của Quốc hội (chứ không phải của cả quốc gia nữa).Nói cách khác, Chính phủ đã thuần túy trở thành “một cơ quan trực thuộc Quốc hội”.
Cụ thể, Điều 104 Hiến pháp năm 1980 quy định như sau “Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”
Địa vị pháp lý của người đứng đầu Chính phủ (Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) khá “mờ nhạt.” Tuy nhiên, trách nhiệm của Bộ trưởng lại được quy định ngay trong bản thân Hiến pháp. Cụ thể, Điều 112 Hiến pháp 1980 quy định “Mỗi thành viên Hội đồng bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Hội đồng bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.”
Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định như sau: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Chính phủ tiếp tục được khẳng định “là cơ quan chấp hành của Quốc hội” giống như quy định trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Chính phủ cũng tiếp tục được khẳng định là “cơ quan hành chính Nhà nước”, chính xác hơn, Chính phủ là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.” Nhưng khác với quy định của Hiến pháp năm 1980, Chính phủ không chỉ giản đơn là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Quốc hội” nữa mà đã được quy định rõ ràng là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quy định này khá tương đồng với quy định về tính chất và vị trí của Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959.Theo điều 1 – Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua hai điều trên ta thấy Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội, vừa là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất”.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội thể hiện ở :
Thứ nhất, Quốc hội thành lập ra Chính phủ, quy định cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cho Chính phủ . Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội .
Thứ hai, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước.
Thứ ba, thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm,cách chức theo quy định của pháp luật, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội .
Thứ tư, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quy định vào trong Nghị quyết của Quốc hội à Chính phủ tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả trên cơ sở cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, phân công, đề ra các biện pháp thích hợp, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thể hiện ở :
Một là, Chính phủ thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước trên phạm vi toàn lãnh,bao trùm toàn bộ các lĩnh vực hoạt động nhà nước và đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quốc phòng, y tế, giáo dục,….. thuộc chức năng của Chính phủ được Hiến pháp quy định
Hai là, Bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở
Ba là, bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luậttrong tất cả các  cơ quan nhà nước tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội, đôn vị vũ trangvaf mọi công dân.
Bốn là, Chính phủ đứng đầu hệ thống cơ quan nhà nước, thực hiện vai trò lãnh đạo,chỉ đạo,hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân như vậy sẽ đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước.
Năm là, về mặt hành chính nhà nước quyết định của chính phủ là quyết định cao nhất quyết định cuối cùng và  phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân .
Như vậy, Chính phủ đã có tính độc lập tương đối so với Quốc Hội trong lĩnh vực hành chính nhà nước, quản lí nhà nước.Đây là sự tiếp thu hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất nhưn có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhưng Hiến pháp năm 1946 lại quy định “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Theo Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc chung tổ chức quyền lực Nhà nước là xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân và thể hiện rõ sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Đến Hiến pháp năm 1959, tại điều 71 quy định : “ Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ”. Những thay đổi trong bộ máy nhà nước thời kỳ này khẳng định quan điểm mới về tổ chức bộ máy nhà nước, theo xu hướng quyền lực nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Và theo điều này thì một mặt Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mặt khác là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta, đứng đầu hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, đảm nhận một chức năng hoạt động độc lập – hoạt động hành chính Nhà nước.
 Từ đây có thể thấy rằng theo Hiến pháp năm 1959 Hội đồng Chính phủ có tính độc lập tương đối. Hiến pháp năm 1959 thể hiện rõ nguyên tắc quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân và cũng cho ta thấy rằng Hội đồng Chính phủ được tổ chức hoàn toàn theo mô hình Chính phủ của các nước xã hội chủ nghĩa khác với Chính phủ trong Hiến pháp năm 1946 xây dựng theo mô hình tư sản. Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 một lần nữa khẳng định tính chất chấp hành của Hội đồng bộ trưởng trước Quốc hội song chức năng của cơ quan này đã có sự thay đổi và vị trí cũng giống như Hiến pháp năm 1959. Theo Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981 : “Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ”. (Điều 104). Tuy nhiên Hội đồng bộ trưởng về tính chất không hoàn toàn giống như Hội đồng Chính phủ. Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng bộ trưởng là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Với quy định này, chúng ta thấy tính độc lập tương đối của Chính phủ với Quốc hội không còn nữa. Quy định này phản ánh quan niệm một thời cho rằng: Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát – phải thực sự trở thành “tập thể hành động”. Hội đồng bộ trưởng được tổ chức theo tinh thần đó là cơ quan chấp hành – hành chính Nhà nước cao nhất của Quốc hội. Chức năng, nhiệm vụ của nó là thực hiện những hoạt động chấp hành – hành chính được Quộc hội giao cho.Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ, do Quốc hội lập ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta (chứ không phải Quốc hội). Nói cách khác nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nếu như Hiến pháp năm 1946 không quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, quyền hành chính Nhà nước cao nhất đứng riêng rẽ như một cành quyền lực độc lập thì các Hiến pháp sau này 1959, 1980 đã thức nhận tính phụ thuộc của hành pháp và lập pháp, chí ít là trong lĩnh vực chấp hành. Đặc biệt Hiến pháp 1980 còn thừa nhận thật rõ, không những Chính phủ là cơ quan chấp hành, mà còn là hành chính cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Phải đến Hiến pháp năm 1992 ta mới có thể thấy được một quy định rõ ràng. Theo Hiến pháp năm 1992 được gọi đơn giản là Chính phủ. Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với thay đổi về tên gọi, Chính phủ có nhiều thay đổi theo hướng đổi mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
 Nếu so sánh cả bốn bản Hiến pháp của nước ta chúng ta thấy những quan niệm về tính chất của Chính phủ có những thay đổi nhất định. Hiến pháp năm 1946 xây dựng Chính phủ theo mô hình chính phủ tư sản nên không quy định Chinh phủ là cơ quan chấp hành của Nghị viện. Hiến pháp năm 1980 xây dựng Chính phủ ( Hội đồng Bộ trưởng ) theo mô hình của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước khác do Quốc hội lập ra là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Vì vậy Hiến pháp năm 1980 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội . Quy định này làm cho Chính phủ thiếu tính độc lập tương đối trong lĩnh vực hoạt động hành chính Nhà nước. Khắc phục nhược điểm này, Hiến pháp năm 1992 quay về với Hiến pháp năm 1959 xây dựng theo quan điểm tập quyền, nghĩa là quyền lực Nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần phải có sự phân chia chức năng rành rọt giữa các cơ quan Nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp.. Khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội nhưng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm chỉ rõ tính chất của Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội. Chính phủ do Quốc hội thành lập ra, nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Tuy nhiên, Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đây là quan điểm có sự đổi mới so với Hiến pháp năm 1980, nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong hoạt động quản lí nhà nước.
Chính phủ thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân.Quy định của Hiến pháp năm 1992 về vị trí, tính chất của Chính phủ là sự kế thừa có chọn lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam, đồng thời phù hợp quan điểm chung của các nhà nước hiện đại. Để Chính phủ thật sự là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, trật tự hình thành và các hình thức hoạt động của Chính phủ cho phù hợp yêu cầu công cuộc đổi nới đất nước.
2.     Chức năng của Chính phủ
Vai trò của Chính phủ - cơ quan hành pháp trong quản lý hành chính nhà nước được thể hiện qua các chức năng (hay là phương diện hoạt động cơ bản) của nó. Ngược lại, qua việc thực hiện các chức năng, Chính phủ thể hiện vai trò của mình. Chức năng của mỗi Chính phủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: kiểu nhà nước (xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa), vào chế độ chính trị cụ thể và các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa… cụ thể. Có thể phân chức năng của Chính phủ thành các chức năng theo đối tượng tác động của Chính phủ, đó là các chức năng: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, trật tự xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Các chức năng của Chính phủ cũng có thể phân thành nhóm chức năng đối nội và nhóm chức năng đối ngoại…   Chức năng của Chính phủ là khái niệm trừu tượng. Tính cụ thể của các chức năng thể hiện trong các nhiệm vụ, quyền hạn của nó. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong hiến pháp, luật cụ thể hóa hiến pháp. 
Theo hiến pháp 1946 chức năng của Chính phủ vô cùng  quan trọng gắn liền với chức năng của chủ tịch Hồ Chí Minh.Chức năng của chính phủ được cụ thể hóa thành nhiệm vụ quyền hạn quy định tại Điều thứ 52 Hiến pháp năm 1946, Chính phủ có những quyền hạn cơ bản sau:
- Quyền thi hành pháp luật: Thi hành các đạo luật (và quyết nghị) của Nghị viện;
- Quyền tham gia xây dựng luật: quyền đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện (đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt).
- Các quyền khác: Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần; bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn; lập dự án ngân sách hàng năm.
Theo Hiến pháp 1959 chức năng của chính phủ phủ có sự cụ thể hóa và phù hợp với vị trí, tính chất và điều kiện hoàn cảnh để thực hiện chức năng quản lý hành chính của mình cũng được cụ thể hóa trong nhiệm vụ quyền hạn của chính phủ.
Nhưng Hiến pháp 1980 quy định cụ thể chức năng của chính phủ tại điều 104 “Hội đồng bộ trưởng thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước; tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành pháp luật; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; bảo đảm xây dựng chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Hội đồng bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.”
Hiến pháp 1992 quy định rõ chức năng của chính phủ tại điều 109 “Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”.Cụ thể hóa tại Điều 112 Hiến pháp năm 1992 thành các nhiệm vụ quyền hạn trong lĩnh vực kinh tế; khoa học công nghệ, môi trường; văn hóa giáo dục, thông tin thể thao và du lịch; y tế và xã hội; dân tộc và tôn giáo; quốc phòng an ninh và trật tự, an toàn xã hội; tổ chức hành chính nhà nước; đối ngoại; lập pháp và hành chính tư pháp; nhiệm vụ và quyền hạn đối với hội đồng nhân dân tỉnh,, thành phố trực thuộc trung ương.
Về chức năng, dù có tên gọi khác qua bốn bản Hiến pháp nhưng Chính phủ đều được xác định là cơ quan Nhà nước có chức năng hành pháp và Chính phủ còn có chức năng quan trọng là quản lí đất nước theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật.Chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ có những đặc thù sau:
Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động chủ yếu, bao chùm toàn bộ lĩnh vực được quy định.Nếu như các cơ quan nhà nước khác muốn thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ được phân công đều phải thực hiện quản lý hành chính nhưng đó không phải hoạt động chủ yếu mà chỉ là hoạt động hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng được phân công. Chủ thể duy nhất có chức năng quản lý hành chính nhà nước chỉ có Chính phủ và ủy ban nhân dân.
Hoạt động quản lý của Chính pủ bao trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi cả nước: kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại…còn các bộ cơ quan ngang bộ quản lý nhà nước theo một ngành, một lĩnh vực nhất định được phân công, Ủy ban nhân dân chỉ thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương nhất định
Đảm bảo sự thông nhất trong hoạt động quản lý nhà nước, Chính phủ thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt đọng của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và Ủy ban nhân dân.
PHẦN KẾT LUẬN
Quy định của Hiến pháp 1992  về  vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ là sự kế thừ và chọn lọc quy định các Hiến pháp Việt Nam, đồng thời phù hợp với quan điểm chung của nhà nước hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh sự kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động hành chính, phải phân giao cho Chính phủ đầy đủ quyền hạn tương xứng, độc lập và chủ động. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, thích ứng với trình độ hội nhập, hợp tác yêu cầu đặt ra là tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các chương trình dự án Quốc gia, đàm phán, kí kết các điều ước Quốc tế với Chính phủ các nước, tăng cường thẩm quyền của Chính phủ trong nước lãnh đạo hành chính, tổ chức bộ máy. Sắp tới có sự sửa đổi Hiến pháp, Chính phủ là một chế định quan trọng trong bộ máy nhà nước cần có sự sử đổi, bổ sung phù hợp với tình hình đất nước.




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “ Luật hiến pháp Việt Nam ” nhà xuất bản tư pháp , Hà Nội-2006, tr.377-386
2. Pháp luật đại cương – TS Lê Minh Toàn ( Chủ biên ) – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
PGS.TS. Vũ Thư, Viện Nhà nước và Pháp luật, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số tháng 10 năm 2012.
3.PTS. Luật học. Thái Vĩnh Thắng “Lịch sử lập Hiến Việt Nam” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 1998.
4. Nguyễn Minh Đoan, “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong Lê Minh Tâm và Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật (Hà Nội: NXB Công an nhân dân, 2011),tr106 -110, tr. 446-447.
5.Bùi Xuân Đức, “Đổi mới, Hoàn thiện Bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay”, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội- 2004 ,tr.268- 289.
6. Hiến pháp 1946
7. Hiến pháp 1959
8. Hiến pháp 1980
9. Hiến pháp 1992
10. Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng ngày 4/7/1981
11. LUẬT của Quốc hội số 32/2001/QH10  ngày 25 tháng 12 năm 2001 về Tổ chức Chính phủ
12.Các Website




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét