A.
LỜI
MỞ ĐẦU
Sự phát triển như vũ bão của khoa học,
công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã đặt người tiêu dùng
vào khung cảnh mới- đó là sự đan xen giữa những lợi ích và phạm vi lựa chọn rộng
rãi, cùng với đó là những phương thức kinh doanh gian dối, thiếu trung thực và
được ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Do đó, vấn đề tranh chấp giữa
người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh xảy ra ngày một nhiều hơn. Để có
thể hiểu rõ vè vấn đề này, em xin nghiên cứu vấn về “ Thực trạng pháp luật về các
phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Việt
Nam”
B.
NỘI
DUNG
I. Tìm hiểu khái quát về
tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân
1.
Khái niệm tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ( tổ chức, cá nhân
kinh doanh).
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau song nhiều nhà khoa học
đã thống nhất cho rằng: tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân được hiểu
là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia quan hệ tiêu dùng. Theo đó, tranh chấp giữa
người tiêu dùng với thương nhân có thể có những dạng cơ bản sau:
-
Tranh chấp về số lượng, chất lượng, tiêu
chuẩn hàng hóa, dịch vụ được cung ứng;
-
Tranh chấp về thực hiện các nghĩa vụ bảo
hành, thu đổi hàng hóa, trả lại tiền, thu hồi hàng hóa theo quy định của pháp
luật;
-
Tranh chấp về các điều kiện giao dịch
chung và hợp đồng theo mẫu của tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ;
-
Tranh chấp về hành vi lừa dối hoặc gây
nhầm lẫn của thương nhân cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc
che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác;
-
Tranh chấp về hành vi ép buộc, quấy rối
người tiêu dùng thông qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ của thương nhân trái với ý
muốn của người tiêu dùng;
-
Tranh chấp về nghĩa vụ đảm bảo thông tin
an toàn, bí mật thông tin của người tiêu dùng khi tham gia giao dịch , sử dụng
hàng hóa, dịch vụ;
Bên cạnh đó, tranh chấp giữa người
tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh còn được hiểu là sự bất đồng về một
hiện tượng pháp lý trong đời sống tiêu dùng giữa nhà cung ứng và người tiêu
dùng: như sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm; quyền bảo lưu ( quyền rút
khởi hợp đồng) của người tiêu dùng khi giao kết các hợp đồng theo mẫu,… hoặc gắn
liền với yêu cầu đảm bảo an toàn khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ, chẳng hạn như:
mức độ và phương thức thực hiện cảnh báo khi sử dụng hàng hóa; dịch vụ, nghĩa vụ
thông tin nhằm sử dụng sản phẩm an toàn[1] của
nhà cung ứng khi cung ứng hàng hóa, dịch vụ,…
2.
Đặc điểm tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ( tổ chức, cá nhân
kinh doanh).
Thứ
nhất, về lĩnh vực phát sinh tranh chấp. Đây là loại hình
tranh chấp phát sinh trong quan hệ tiêu dùng – điểm cuối trong chuỗi phân phối
hàng hóa, dịch vụ. Do đó, trong quan hệ tiêu dùng không tồn tại sự phân phối lại.
Bởi thế, người tiêu dùng luôn phải đối mặt với các rủi ro đối với hàng hóa, dịch
vụ được chuyển giao từ các chuỗi phân phối trước đó.
Thứ hai, về chủ thể của
tranh chấp. Tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân là loại hình tranh
chấp phải có một bên tham gia là người tiêu dùng – là người mua; sử dụng hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức [2].
Thứ
ba,
về nội dung của các tranh chấp. Nội dung các tranh chấp giữa người tiêu dùng với
thương nhân chủ yếu liên quan đến các nghĩa vụ của thương nhân trong quá trình
đưa hàng hóa, dịch vụ của mình vào lưu thông;
Thứ
tư, về thời điểm phát sinh tranh chấp. Từ yêu cầu đảm bảo
an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu
dùng, [3]tranh
chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân có thể phát sinh ngay khi hàng hóa, dịch
vụ của thương nhân chưa chính thức tham gia lưu thông ( ví dụ: thuốc chữa bệnh,
năng lượng hạt nhân, thực phẩm biển đổi gen,…). Khởi nguồn của những tranh chấp
này thường bắt đầu từ những người tiêu dùng tình nguyện (dùng thử) và các tổ chức
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ
năm,
về hệ quả xã hội của tranh chấp. Tranh
chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân có thể dẫn tới những phản ánh tiêu cực
từ phía cộng đồng tiêu dùng và toàn xã hội như: tẩy chay tập thể đối với toàn bộ
sản phẩm mà thương nhân cung ứng, sản phẩm có xuất xứ từ quốc gia, vùng lãnh thổ,
công khai phổ biến các thông tin chưa được kiểm chứng về sản phẩm,… Bởi vậy, việc
đảm bảo thông tin trung thực trong quá trình giải quyết tranh chấp luôn là mục
tiêu ưu tiên trong chính sách và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc
gia trên thế giới.
II.
Thực trạng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng và thương nhân tại Việt Nam
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương
nhân là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu
thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lại sự cân bằng về mặt lợi
ích mà các bên có thể chấp nhận được.
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng với thương nhân phải đáp ứng được như yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải huy động được sức mạnh
của toàn xã hội, trong đó có vai trò tích cực của bản thân mỗi người tiêu dùng.
Bản chất của bảo vệ người tiêu dùng bắt đầu từ định chuẩn, đăng kí chuẩn, hỗ trợ
liên kết sức mạnh của người tiêu dùng cho tới thực thi pháp luật những công việc
như vậy thuộc nhiều tổ chức, cơ quan như hiệp hội, truyền thông, báo chí, hành
chính công tố và tòa án. Thêm vào đó, sức mạnh này chỉ có thể được củng cố và
gây sức ép đối với các doanh nghiệp khi mỗi người tiêu dùng có ý thức chủ động
và trách nhiệm xã hội trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa.
Thứ hai,
khắc phục vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa người tiêu dùng với tổ chức,
cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Vị thế bất cân xứng của người
tiêu dùng là do thiếu thông tin, kinh nghiệm, khả năng đàm phán và tài chính
nên thường phải chịu những rủi ro trong giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh
doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt là những rủi ro về pháp lý.
Thứ ba, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của
người tiêu dùng , doanh nghiệp và lợi ích chung của toàn xã hội. Khắc phục vị
thế bất cân xứng của người tiêu dùng không có nghĩ là bảo vệ người tiêu dùng bằng
mọi giá, bỏ qua các quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân cung ứng hàng
hóa, dịch vụ, Trong mọi trường hợp, lợi ích chung của toàn xã hội sẽ là thước
đo đánh giá các thể chế bảo vệ người tiêu dùng nói chung, các phương thức giải
quyết tranh chấp của người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh nói riêng.
Thứ tư, do số lượng các
tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ngày càng tăng, với giá trị
tranh chấp không lớn nên việc giải quyết tranh chấp đòi hỏi phải nhanh chóng,
thuận lợi, kinh tế, bằng hình thức đơn giản và hiệu quả.
2.1
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng thương lượng
2.1.1.
Khái niệm: Thương lượng là hình thức giải quyết
tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân không cần đến vai trò của bên thứ
ba.. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm,
chính kiến, bàn bạc tìm các biện pháp thích hợp, và đi đến thống nhất thỏa thuận
để tự giải quyết các bất đồng.
2.1.2.Thực
trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng
thương lượng tại Việt Nam
Ở Việt
Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng được ghi nhận
chính thức như là một hình thức giải quyết tranh chấp độc lập. Đối với quan hệ
tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 2010 (Luật BVQLNTD 2010) thừa nhận
thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp, quy định tại Khoản 1 Điều
30 Luật BVQLNTD như sau: “Người tiêu dùng
có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để
thương lượng khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.”.
Theo đó, hình thức này chỉ bị hạn chế khi tranh chấp gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng và lợi ích công cộng, Điều này
được quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật BVQLNTD 2010.
Khi phát sinh tranh chấp, người
tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
để thương lượng khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành
thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được yêu cầu [4]
Mặc dù, tại Điều 32 Luật BVQLNTD 2010
có quy định: “Kết quả thương lượng thành
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng được lập
thành văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Song lại không đề
cập đến giá trị pháp lý của kết quả thương lượng nêu trên.
Thực tế cho thấy, dù thương lượng có
nhiều những ưu điểm như vậy nhưng ở Việt Nam hình thức này không được sử dụng
rộng rãi. Có thể kể đến các nguyên nhân cơ bản như:
- Tổ chức, cá
nhân kinh doanh không ý thức được trách nhiệm xã hội của mình và thường lợi
dụng vị thế bất cân xứng về thông tin trong quá trình cung ứng hàng hóa, dịch
vụ cho người tiêu dùng;
- Bản thân
người tiêu dùng chưa nhận thức được quyền của mình và sử dụng các quyền đó để
bảo vệ lợi ích của chính mình;
- Pháp luật
Việt Nam thừa nhận hình thức giải quyết tranh chấp thương lượng song lại không
thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các bên trong biên bản
thương lượng. Đây là rào cản lớn nhất khiến khi tham gia giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng thành, dễ xảy ra tình trạng thoái thác thực hiện nghĩa vụ đã
cam kết.
Trên thực
tế đã được ghi nhận tại Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam đã
cho thấy nhiều kết quả thương lượng đã được ghi nhận song không được thực hiện
bởi sự thiếu thiện chí của một bên. Không ít các tổ chức, cá nhân kinh doanh đã
sử dụng thương lượng như một công cụ để né tránh dư luận xã hội, tránh sự can
thiệp của cơ quan công quyền, thậm chí để kéo dài thời gian tiêu thụ sản phẩm
đang bị khiếu nại.
2.2. Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và
thương nhân bằng hòa giải
2.2.1
Khái niệm: Hòa giải là hình thức giải quyết tranh
chấp trong đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ
ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ
trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải
pháp thích hợp cho việc giải quyết các xung đột nhằm chấm dứt các tranh chấp, bất
hòa.
Hòa giải là giải pháp mang tính chất
tự nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc biệt là bên thứ ba với
tính chất trung gian hòa giải có vị trí độc lập đối với các bên.
2.2.2.
Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng
bằng hòa giải tại Việt Nam
Luật
BVQLNTD đã quy định khá chi tiết về quyền lựa chọn phương thức hòa giải tại Điều 33 Luật BVQLNTD năm 2010: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
và người tiêu dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá nhân hoặc tổ
chức hòa giải để thực hiện việc hòa giải.” Nguyên tắc hòa giải quy định tại
Điều 34 của Luật BVQLNTD 2010:
“1.
Bảo đảm khách quan, trung thực, thiện chí, không được ép buộc, lừa dối.
2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải, các
bên tham gia hòa giải phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến việc hòa giải,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tổ chức hòa giải được pháp luật quy
định tại Điều 35: “Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy
định của Chính phủ được thành lập tổ chức hòa giải để giải quyết tranh chấp
giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” . Ngoài
ra, Tổ chức hòa giải các tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân được
quy định tại các Điều 31, 32 và 33 của Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ về
việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng. Theo đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành lập,
giải thể tổ chức hòa giải bao gồm: cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều
31). Hòa giải viên phải đáp ứng các điều kiện làm hòa giải viên được quy định
tại Điều 32: Là công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm
chất đạo đức tốt, trung thực, có ít nhất năm (5) năm kinh nghiệm công tác.
Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã
bị kết án mà chưa được xóa án tích không được làm hòa giải viên.
Điều 36 Luật BVQLNTD quy định về
nội dung biên bản hòa giải như sau”
“1. Biên bản hòa giải
phải có các nội dung chính sau đây:
a) Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa
giải;
b) Các bên tham gia hòa giải;
c) Nội dung hòa giải;
d) Thời gian, địa điểm tiến hành hòa
giải;
đ) Ý kiến của các bên tham gia hòa
giải;
e) Kết quả hòa giải;
g) Thời hạn thực hiện kết quả hòa
giải thành.
2. Biên bản hòa giải phải có chữ ký
của các bên tham gia hòa giải và chữ ký xác nhận của tổ chức, cá nhân tiến hành
hòa giải.”
Các bên có trách nhiệm thực hiện kết
quả hòa giải thành theo Điều 37 Luật BVQLNTD 2010 trong thời hạn đã thỏa thuận trong biên bản
hòa giải; trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thì bên kia có quyền
khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Mặc dù hòa giải là phương thức được
sử dụng rộng rãi hơn, chiếm 80% các vụ việc khiếu nại của người tiêu dùng. Tuy
nhiên, kết quả hòa giải nhiều khi không được các bên nghêm túc thực thi do giá
trị pháp lý của biên bản hòa giải thành là không cao. Như vậy, bên cạnh những
kết quả đạt được, phương thức hòa giải vẫn có những hạn chế nhất định. Ở Việt
Nam, giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng hòa giải
được dụng rất hạn chế vì:
Một là, chưa tồn tại một khuôn khổ pháp lý
đầy đủ cho các hoạt động hòa giải tại Việt Nam mà trước hết là sự lựa chọn
người hòa giải; quy trình hòa giải; giá trị pháp lý trong các khuyến nghị của
hòa giải viên; hình thức quyết định của các bên; giá trị pháp lý của biên bản
hòa giải thành…
Hai là, cũng giống với thương lượng, pháp
luật Việt Nam không thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các
bên trong biên bản hòa giải thành. Với hạn chế này, cácbên tranh chấp thường
quyết định tiếp cận công lý dưới hình thức khác.
2.3. Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và
thương nhân bằng trọng tài
2.3.1 Khái niệm: giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp
thông qua hoạt động trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm
dứt xung đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực
hiện. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp xuất phát từ nhu cầu bảo
vệ lợi ích của các thương nhân trong hoạt động kinh doanh.
2.3.2.
Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng
bằng hòa trọng tài tại Việt Nam
Trong trường hợp người tiêu dùng và tổ
chức cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ vẫn chưa tìm được tiếng nói chung
thông qua các phương thức như thương lượng hoặc hòa giải có thể thỏa thuận lựa
chọn phương pháp là gửi đơn lên Trọng tài. Theo Luật BVQLNTD 2010,
trọng tài được sử dụng như một cách giải quyết tranh chấp phát sinh khi có điều
khoản trọng tài (Thuật ngữ dùng trong Luật Trọng tài
thương mại 2010 là “thỏa thuận trọng tài”). Giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài giữa người tiêu dùng với thương nhân được quy định
từ Điều 38 đến Điều 40 Luật BVQLNTD 2010.
Bên cạnh đó, Điều 2 Luật trọng tài
thương mại 2010 cũng quy định:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên
có hoạt động thương mại
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng trọng tài.”
Tuy nhiên, để điều khoản trọng tài có
hiệu lực, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều
khoản trọng tài trước khi giao kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận.
Theo điều 17 của Luật Trọng tài
thương mại 2010 thì: “Đối với các tranh chấp giữa
nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài
đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà
cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa
chọn trọng tài hoặc tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch
vụ chỉ được quyền khởi kiện tại trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”.
Cách thiết kế quy định này đảm bảo tính linh hoạt, theo đó,nếu người tiêu dùng
hài lòng với điều khoản trọng tài, tranh chấp vẫn được giải quyết bằng trọng
tài như hai bên đã thảo thuận theo điều kiện giao dich chung. Ngược lại, nếu cảm
thấy thiệt thòi bởi thỏa thuận đó, người tiêu dùng cần có cơ hội để xem xét và
quyết định, nếu đồng ý với thỏa thuận trọng tài thì xác nhận vào văn bản riêng.
Đây là một quy định riêng của Luật Trọng tài nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bổ
sung các nguyên tắc chung khác trong pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng.
Mặc dù việc
ra đời các chế tài bảo vệ người tiêu dùng (trong đó có phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài) ở mức cao nhất là rất cần thiết nhưng cũng phải tính
tới việc cân bằng lợi ích giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Trong điều
kiện hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những thuận lợi, các doanh
nghiệp cũng gặp phải rất nhiều vấn đề phát sinh khi thực hiện các hợp đồng.Bởi
vậy mà khi xảy ra tranh chấp, phương thức giải quyết bằng trọng tài là phương
thức đạt hiệu quả cao nhất. Bởi giải quyết bằng phương thức này chỉ giải quyết
1 lần, bằng một hội đồng trọng tài do các lựa chọn nên các bên có thể chọn
những chuyên gia giỏi nhất, độc lập, vô tư và khách quan nhất, có thể bảo vệ
được các bí mật của thương nhân, thủ tục do các bên tự thỏa thuận và thời gian
giải quyết tranh chấp ngắn gọn.
Có thể thấy, các quy định của pháp
luật về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân bằng phương
thức trọng tài đảm bảo tính linh hoạt, tính mềm dẻo của pháp luật trong việc bảo
vệ người tiêu dùng
2.4. giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và
thương nhân bằng tòa án
2.4.1
Khái niệm: Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng
toàn án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài
phán Nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên
có nghĩ vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế.
2.4.2.
Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng
bằng hòa tòa án tại Việt Nam
a.
Giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng thủ tục đơn giản
Theo khoản
2 Điều 41 Luật BVQLNTD 2010 thì vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật tố tụng dân
sự khi có đủ những điều kiện sau đây:
“a) Cá nhân là người
tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho
người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu
đồng.”
Tuy nhiên, điều đáng tiếc là Luật sửa
đổi bổ sung mốt số điều của Bộ luật Dân sự số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 vẫn
chưa quy định chi tiết về thủ tục đơn giản đối với các vụ án dân sự về bảo vệ
quyền lời người tiêu dùng và do đó chưa có cơ hội để áp dụng trên thực tế.
b. Quyền khởi kiện của tổ chức tham
gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật BVQLNTD 2010 thừa nhận quyền khởi kiện
trực tiếp của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng,
quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật BVQLNTD 2010: “ Vụ
án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vụ án mà bên khởi kiện là người
tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo
quy định của Luật này.”
Để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích của người
tiêu dùng, Luật BVQLNTD quy định chi tiết
nghĩa vụ thông tin về vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức
xã hội khởi kiện tại Điều 44 như sau:
“1. Tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có trách nhiệm thông báo công khai bằng
hình thức phù hợp về việc khởi kiện và chịu trách nhiệm về thông tin do mình
công bố, bảo đảm không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Nội dung thông báo quy định tại
khoản 1 Điều này bao gồm:
a) Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ bị kiện;
c) Nội dung khởi kiện;
d) Thủ tục và thời hạn đăng ký tham
gia vụ án.
3. Tòa án có trách nhiệm niêm yết
công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự.”
Tiền bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng khởi kiện vì lợi ích công cộng được thực hiện theo ản án, quyết
định của tòa án [5].
c. Nghĩ vụ chứng minh trong các vụ án
bảo vệ quyền lời người tiêu dùng
Điều 41 Luật BVQLNTD 2010 có quy định về nghĩa vụ chứng minh trong các
vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như sau:
“1. Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại.”
Như vậy, theo
Khoản 1 Điều 41 Người tiêu dùng có
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Điều
này là phù hợp bởi theo quy định tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự khi có yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình ( người tiêu dùng) hoặc phản đối yêu cầu của người khác đối với
mình, thì đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện , yêu cầu phải có nghĩa
vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Do đó, trong trường hợp này, người tiêu dùng là người khởi kiện yêu cầu bảo vệ
quyền vào nghĩa vụ hợp pháp của mình nên phải có nghĩa vụ chứng mình yêu cầu
của mình có căn cứ hợp pháp.
Tuy nhiên, trong các vụ án bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trách nhiệm chứng minh lỗi đã được chuyển giao từ
người tiêu dùng sang tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ.
Đây là điều hoàn toàn hợp lý, bởi trong có vụ án về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, thì người tiêu dùng ở thế yếu ,thiếu thông tin, kinh nghiệm cũng như kiến
thức chuyên môn cao do đó không thể chứng minh lỗi của của tổ chức, cá nhân
kinh doanh. Do vậy, trách nhiệm chứng minh lỗi được chuyển sang cho bên tổ
chức, cá nhân kinh doanh.
2.5.
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng biện pháp hành
chính
Ở Việt Nam tuy không được
nhìn nhận chính thức là phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng
và thương nhân, nhưng biện pháp hành chính cũng được sự liệu trong pháp luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ thể:
a. Về nội dung, hình thức yêu cầu bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng: Người tiêu dùng, tổ
chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền yêu cầu cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện bảo vệ quyền lợi
cho người tiêu dùng khi có hành vi vi phạm pháp luật của thương nhân gây thiệt
hại tới lợi ích nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng.
Việc yêu cầu có thể thực hiện bằng văn bản hoặc yêu cầu trực tiếp.
b. Về thủ tục tiếp nhận yêu cầu bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng: Trường hợp yêu cầu bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng được lập thành văn bản, cán bộ phụ trách tiếp nhận
có trách nhiệm xem xét và tiếp nhận yêu cầu. Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lời
người tiêu dùng được trình bày trực tiếp, cán bộ phụ trách tiếp nhận phải lập
thành văn bản và yêu cầu người tiêu dùng hoặc người đại diện của tổ chức xã hội
tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng kí tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn
bản đó. Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thiếu nội dung cần
thiết, việc bổ sung phải được thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền [6].
c. Trình tự giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày tiếp
nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hợp lệ. Cơ quan có thểm quyên phải
trả lời theo quy định tại Điều 26 Luật BVQLNTD. Trường hợp phức tạp, thời hạn
trả lời có thể gia hạn nhưng không đ
[1] Khoản 2 Điều 8 Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010
[2] Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010
[5] Khoản 1 Điều 46 Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010
[6]
Điều 21 Nghị định của Chính Phủ số 99/20/NĐ-CP ngày 27/10/2011 về quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ người tiêu dùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét