Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Thực trạng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Việt Nam

A.    LỜI MỞ ĐẦU
        Sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã đặt người tiêu dùng vào khung cảnh mới- đó là sự đan xen giữa những lợi ích và phạm vi lựa chọn rộng rãi, cùng với đó là những phương thức kinh doanh gian dối, thiếu trung thực và được ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Do đó, vấn đề tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh xảy ra ngày một nhiều hơn. Để có thể hiểu rõ vè vấn đề này, em xin nghiên cứu vấn về “ Thực trạng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Việt Nam”
B.     NỘI DUNG
I. Tìm hiểu khái quát về tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân
1. Khái niệm tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ( tổ chức, cá nhân kinh doanh).
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau song nhiều nhà khoa học đã thống nhất cho rằng: tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia quan hệ tiêu dùng. Theo đó, tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân có thể có những dạng cơ bản sau:
-         Tranh chấp về số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn hàng hóa, dịch vụ được cung ứng;
-         Tranh chấp về thực hiện các nghĩa vụ bảo hành, thu đổi hàng hóa, trả lại tiền, thu hồi hàng hóa theo quy định của pháp luật;
-         Tranh chấp về các điều kiện giao dịch chung và hợp đồng theo mẫu của tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ;
-         Tranh chấp về hành vi lừa dối hoặc gây nhầm lẫn của thương nhân cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác;
-         Tranh chấp về hành vi ép buộc, quấy rối người tiêu dùng thông qua tiếp thị hàng hóa, dịch vụ của thương nhân trái với ý muốn của người tiêu dùng;
-         Tranh chấp về nghĩa vụ đảm bảo thông tin an toàn, bí mật thông tin của người tiêu dùng khi tham gia giao dịch , sử dụng hàng hóa, dịch vụ;
           Bên cạnh đó, tranh chấp giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh còn được hiểu là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý trong đời sống tiêu dùng giữa nhà cung ứng và người tiêu dùng: như sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm; quyền bảo lưu ( quyền rút khởi hợp đồng) của người tiêu dùng khi giao kết các hợp đồng theo mẫu,… hoặc gắn liền với yêu cầu đảm bảo an toàn khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ, chẳng hạn như: mức độ và phương thức thực hiện cảnh báo khi sử dụng hàng hóa; dịch vụ, nghĩa vụ thông tin nhằm sử dụng sản phẩm an toàn[1] của nhà cung ứng khi cung ứng hàng hóa, dịch vụ,…
2. Đặc điểm tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ( tổ chức, cá nhân kinh doanh).
          Thứ nhất, về lĩnh vực phát sinh tranh chấp. Đây là loại hình tranh chấp phát sinh trong quan hệ tiêu dùng – điểm cuối trong chuỗi phân phối hàng hóa, dịch vụ. Do đó, trong quan hệ tiêu dùng không tồn tại sự phân phối lại. Bởi thế, người tiêu dùng luôn phải đối mặt với các rủi ro đối với hàng hóa, dịch vụ được chuyển giao từ các chuỗi phân phối trước đó.
           Thứ hai, về chủ thể của tranh chấp. Tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân là loại hình tranh chấp phải có một bên tham gia là người tiêu dùng – là người mua; sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức [2].
          Thứ ba, về nội dung của các tranh chấp. Nội dung các tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân chủ yếu liên quan đến các nghĩa vụ của thương nhân trong quá trình đưa hàng hóa, dịch vụ của mình vào lưu thông;
Thứ tư, về thời điểm phát sinh tranh chấp. Từ yêu cầu đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, [3]tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân có thể phát sinh ngay khi hàng hóa, dịch vụ của thương nhân chưa chính thức tham gia lưu thông ( ví dụ: thuốc chữa bệnh, năng lượng hạt nhân, thực phẩm biển đổi gen,…). Khởi nguồn của những tranh chấp này thường bắt đầu từ những người tiêu dùng tình nguyện (dùng thử) và các tổ chức bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
         Thứ năm, về hệ quả xã hội của tranh chấp.  Tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân có thể dẫn tới những phản ánh tiêu cực từ phía cộng đồng tiêu dùng và toàn xã hội như: tẩy chay tập thể đối với toàn bộ sản phẩm mà thương nhân cung ứng, sản phẩm có xuất xứ từ quốc gia, vùng lãnh thổ, công khai phổ biến các thông tin chưa được kiểm chứng về sản phẩm,… Bởi vậy, việc đảm bảo thông tin trung thực trong quá trình giải quyết tranh chấp luôn là mục tiêu ưu tiên trong chính sách và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia trên thế giới.
II. Thực trạng pháp luật về các phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân tại Việt Nam
Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được.
          Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân phải đáp ứng được như yêu cầu sau:
          Thứ nhất, phải huy động được sức mạnh của toàn xã hội, trong đó có vai trò tích cực của bản thân mỗi người tiêu dùng. Bản chất của bảo vệ người tiêu dùng bắt đầu từ định chuẩn, đăng kí chuẩn, hỗ trợ liên kết sức mạnh của người tiêu dùng cho tới thực thi pháp luật những công việc như vậy thuộc nhiều tổ chức, cơ quan như hiệp hội, truyền thông, báo chí, hành chính công tố và tòa án. Thêm vào đó, sức mạnh này chỉ có thể được củng cố và gây sức ép đối với các doanh nghiệp khi mỗi người tiêu dùng có ý thức chủ động và trách nhiệm xã hội trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa.
          Thứ hai, khắc phục vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Vị thế bất cân xứng của người tiêu dùng là do thiếu thông tin, kinh nghiệm, khả năng đàm phán và tài chính nên thường phải chịu những rủi ro trong giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt là những rủi ro về pháp lý.
          Thứ ba, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của người tiêu dùng , doanh nghiệp và lợi ích chung của toàn xã hội. Khắc phục vị thế bất cân xứng của người tiêu dùng không có nghĩ là bảo vệ người tiêu dùng bằng mọi giá, bỏ qua các quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ, Trong mọi trường hợp, lợi ích chung của toàn xã hội sẽ là thước đo đánh giá các thể chế bảo vệ người tiêu dùng nói chung, các phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng với tổ chức, cá nhân kinh doanh nói riêng.
             Thứ tư, do số lượng các tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ngày càng tăng, với giá trị tranh chấp không lớn nên việc giải quyết tranh chấp đòi hỏi phải nhanh chóng, thuận lợi, kinh tế, bằng hình thức đơn giản và hiệu quả.
2.1 Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng thương lượng
2.1.1. Khái niệm: Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân không cần đến vai trò của bên thứ ba.. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, bàn bạc tìm các biện pháp thích hợp, và đi đến thống nhất thỏa thuận để tự giải quyết các bất đồng.
2.1.2.Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng thương lượng tại Việt Nam
        Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng được ghi nhận  chính thức như là một hình thức giải quyết tranh chấp độc lập. Đối với quan hệ tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (Luật BVQLNTD 2010) thừa nhận thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp, quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật BVQLNTD như sau: “Người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thương lượng khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.”. Theo đó, hình thức này chỉ bị hạn chế khi tranh chấp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng và lợi ích công cộng, Điều này được quy định tại khoản 2 Điều 30 Luật BVQLNTD 2010.
Khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng có quyền gửi yêu cầu đến tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ để thương lượng khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm tiếp nhận, tiến hành thương lượng với người tiêu dùng trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu [4]
         Mặc dù, tại Điều 32 Luật BVQLNTD 2010 có quy định: “Kết quả thương lượng thành của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng được lập thành văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Song lại không đề cập đến giá trị pháp lý của kết quả thương lượng nêu trên.
        Thực tế cho thấy, dù thương lượng có nhiều những ưu điểm như vậy nhưng ở Việt Nam hình thức này không được sử dụng rộng rãi. Có thể kể đến các nguyên nhân cơ bản như:
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh không ý thức được trách nhiệm xã hội của mình và thường lợi dụng vị thế bất cân xứng về thông tin trong quá trình cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng;
- Bản thân người tiêu dùng chưa nhận thức được quyền của mình và sử dụng các quyền đó để bảo vệ lợi ích của chính mình;
- Pháp luật Việt Nam thừa nhận hình thức giải quyết tranh chấp thương lượng song lại không thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các bên trong biên bản thương lượng. Đây là rào cản lớn nhất khiến khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thành, dễ xảy ra tình trạng thoái thác thực hiện nghĩa vụ đã cam kết.
       Trên thực tế đã được ghi nhận tại Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam đã cho thấy nhiều kết quả thương lượng đã được ghi nhận song không được thực hiện bởi sự thiếu thiện chí của một bên. Không ít các tổ chức, cá nhân kinh doanh đã sử dụng thương lượng như một công cụ để né tránh dư luận xã hội, tránh sự can thiệp của cơ quan công quyền, thậm chí để kéo dài thời gian tiêu thụ sản phẩm đang bị khiếu nại.
2.2.  Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng hòa giải
2.2.1 Khái niệm: Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên trong quá trình thương lượng có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên  nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các xung đột nhằm chấm dứt các tranh chấp, bất hòa.
Hòa giải là giải pháp mang tính chất tự nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hòa giải có vị trí độc lập đối với các bên.
2.2.2. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng hòa giải tại Việt Nam
           Luật BVQLNTD đã quy định khá chi tiết về quyền lựa chọn phương thức hòa giải  tại Điều 33 Luật BVQLNTD năm 2010: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có quyền thỏa thuận lựa chọn bên thứ ba là cá nhân hoặc tổ chức hòa giải để thực hiện việc hòa giải.” Nguyên tắc hòa giải quy định tại Điều 34 của Luật BVQLNTD 2010:
“1. Bảo đảm khách quan, trung thực, thiện chí, không được ép buộc, lừa dối.
 2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải, các bên tham gia hòa giải phải bảo đảm bí mật thông tin liên quan đến việc hòa giải, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Tổ chức hòa giải được pháp luật quy định tại Điều 35: Tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ được thành lập tổ chức hòa giải để giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” . Ngoài ra, Tổ chức hòa giải các tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân được quy định tại các Điều 31, 32 và 33 của Nghị định 99/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thành lập, giải thể tổ chức hòa giải bao gồm: cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 31). Hòa giải viên phải đáp ứng các điều kiện làm hòa giải viên được quy định tại Điều 32: Là công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, có ít nhất năm (5) năm kinh nghiệm công tác. Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích không được làm hòa giải viên.
Điều 36 Luật BVQLNTD quy định về nội dung biên bản hòa giải như sau”
1. Biên bản hòa giải phải có các nội dung chính sau đây:
a) Tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải;
b) Các bên tham gia hòa giải;
c) Nội dung hòa giải;
d) Thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải;
đ) Ý kiến của các bên tham gia hòa giải;
e) Kết quả hòa giải;
g) Thời hạn thực hiện kết quả hòa giải thành.
2. Biên bản hòa giải phải có chữ ký của các bên tham gia hòa giải và chữ ký xác nhận của tổ chức, cá nhân tiến hành hòa giải.”
    Các bên có trách nhiệm thực hiện kết quả hòa giải thành theo Điều 37 Luật BVQLNTD 2010  trong thời hạn đã thỏa thuận trong biên bản hòa giải; trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thì bên kia có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.
Mặc dù hòa giải là phương thức được sử dụng rộng rãi hơn, chiếm 80% các vụ việc khiếu nại của người tiêu dùng. Tuy nhiên, kết quả hòa giải nhiều khi không được các bên nghêm túc thực thi do giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành là không cao. Như vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, phương thức hòa giải vẫn có những hạn chế nhất định. Ở Việt Nam, giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng hòa giải được dụng rất hạn chế vì:
      Một là, chưa tồn tại một khuôn khổ pháp lý đầy đủ cho các hoạt động hòa giải tại Việt Nam mà trước hết là sự lựa chọn người hòa giải; quy trình hòa giải; giá trị pháp lý trong các khuyến nghị của hòa giải viên; hình thức quyết định của các bên; giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành…
     Hai là, cũng giống với thương lượng, pháp luật Việt Nam không thừa nhận khả năng cưỡng chế thi hành những cam kết của các bên trong biên bản hòa giải thành. Với hạn chế này, cácbên tranh chấp thường quyết định tiếp cận công lý dưới hình thức khác.
2.3.  Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng trọng tài
2.3.1 Khái niệm: giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp xuất phát từ nhu cầu bảo vệ lợi ích của các thương nhân trong hoạt động kinh doanh.
2.3.2. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng hòa trọng tài tại Việt Nam
          Trong trường hợp người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ vẫn chưa tìm được tiếng nói chung thông qua các phương thức như thương lượng hoặc hòa giải có thể thỏa thuận lựa chọn phương pháp là gửi đơn lên Trọng tài. Theo Luật BVQLNTD 2010, trọng tài được sử dụng như một cách giải quyết tranh chấp phát sinh khi có điều khoản trọng tài (Thuật ngữ dùng trong Luật Trọng tài thương mại 2010“thỏa thuận trọng tài”). Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giữa người tiêu dùng với thương nhân được quy định từ Điều 38 đến Điều 40 Luật BVQLNTD 2010. Bên cạnh đó, Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 cũng quy định:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài.”
          Tuy nhiên, để điều khoản trọng tài có hiệu lực, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều khoản trọng tài trước khi giao kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận. Theo điều 17 của Luật Trọng tài thương mại 2010 thì: “Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn trọng tài hoặc tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”. Cách thiết kế quy định này đảm bảo tính linh hoạt, theo đó,nếu người tiêu dùng hài lòng với điều khoản trọng tài, tranh chấp vẫn được giải quyết bằng trọng tài như hai bên đã thảo thuận theo điều kiện giao dich chung. Ngược lại, nếu cảm thấy thiệt thòi bởi thỏa thuận đó, người tiêu dùng cần có cơ hội để xem xét và quyết định, nếu đồng ý với thỏa thuận trọng tài thì xác nhận vào văn bản riêng. Đây là một quy định riêng của Luật Trọng tài nhằm bảo vệ người tiêu dùng, bổ sung các nguyên tắc chung khác trong pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Mặc dù việc ra đời các chế tài bảo vệ người tiêu dùng (trong đó có phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài) ở mức cao nhất là rất cần thiết nhưng cũng phải tính tới việc cân bằng lợi ích giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, bên cạnh những thuận lợi, các doanh nghiệp cũng gặp phải rất nhiều vấn đề phát sinh khi thực hiện các hợp đồng.Bởi vậy mà khi xảy ra tranh chấp, phương thức giải quyết bằng trọng tài là phương thức đạt hiệu quả cao nhất. Bởi giải quyết bằng phương thức này chỉ giải quyết 1 lần, bằng một hội đồng trọng tài do các lựa chọn nên các bên có thể chọn những chuyên gia giỏi nhất, độc lập, vô tư và khách quan nhất, có thể bảo vệ được các bí mật của thương nhân, thủ tục do các bên tự thỏa thuận và thời gian giải quyết tranh chấp ngắn gọn.
Có thể thấy, các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân bằng phương thức trọng tài đảm bảo tính linh hoạt, tính mềm dẻo của pháp luật trong việc bảo vệ người tiêu dùng
2.4.  giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng tòa án
2.4.1 Khái niệm: Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng toàn án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩ vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế.
2.4.2. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng hòa tòa án tại Việt Nam
a. Giải quyết tranh chấp giữa thương nhân và người tiêu dùng bằng thủ tục đơn giản
     Theo khoản 2 Điều 41 Luật BVQLNTD 2010 thì vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được giải quyết theo thủ tục đơn giản quy định trong pháp luật tố tụng dân sự khi có đủ những điều kiện sau đây:
“a) Cá nhân là người tiêu dùng khởi kiện; tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng bị khởi kiện;
b) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
c) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng.”
       Tuy nhiên, điều đáng tiếc là Luật sửa đổi bổ sung mốt số điều của Bộ luật Dân sự số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 vẫn chưa quy định chi tiết về thủ tục đơn giản đối với các vụ án dân sự về bảo vệ quyền lời người tiêu dùng và do đó chưa có cơ hội để áp dụng trên thực tế.
b. Quyền khởi kiện của tổ chức tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
    Luật BVQLNTD 2010 thừa nhận quyền khởi kiện trực tiếp của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, quy định tại khoản 1 Điều 41 Luật BVQLNTD 2010: “  Vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là vụ án mà bên khởi kiện là người tiêu dùng hoặc tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của Luật này.”
 Để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích của người tiêu dùng, Luật  BVQLNTD quy định chi tiết nghĩa vụ thông tin về vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội khởi kiện tại Điều 44 như sau:
1. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có trách nhiệm thông báo công khai bằng hình thức phù hợp về việc khởi kiện và chịu trách nhiệm về thông tin do mình công bố, bảo đảm không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Nội dung thông báo quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm:
a) Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện;
b) Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện;
c) Nội dung khởi kiện;
d) Thủ tục và thời hạn đăng ký tham gia vụ án.
3. Tòa án có trách nhiệm niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.”
        Tiền bồi thường thiệt hại trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng do tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khởi kiện vì lợi ích công cộng được thực hiện theo ản án, quyết định của tòa án [5].
c. Nghĩ vụ chứng minh trong các vụ án bảo vệ quyền lời người tiêu dùng
  Điều 41 Luật BVQLNTD 2010 có quy định về nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như sau:
“1. Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trừ việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại.”
      Như vậy, theo Khoản 1 Điều 41 Người tiêu dùng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Điều này là phù hợp bởi theo quy định tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự  khi có yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ( người tiêu dùng) hoặc phản đối yêu cầu của người khác đối với mình, thì đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện , yêu cầu phải có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do đó, trong trường hợp này, người tiêu dùng là người khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền vào nghĩa vụ hợp pháp của mình nên phải có nghĩa vụ chứng mình yêu cầu của mình có căn cứ hợp pháp.
Tuy nhiên, trong các vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trách nhiệm chứng minh lỗi đã được chuyển giao từ người tiêu dùng sang tổ chức, cá nhân kinh doanh cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Đây là điều hoàn toàn hợp lý, bởi trong có vụ án về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì người tiêu dùng ở thế yếu ,thiếu thông tin, kinh nghiệm cũng như kiến thức chuyên môn cao do đó không thể chứng minh lỗi của của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do vậy, trách nhiệm chứng minh lỗi được chuyển sang cho bên tổ chức, cá nhân kinh doanh.
2.5. Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân bằng biện pháp hành chính
        Ở Việt Nam tuy không được nhìn nhận chính thức là phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và thương nhân, nhưng biện pháp hành chính cũng được sự liệu trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cụ thể:
       a. Về nội dung, hình thức yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng: Người tiêu dùng, tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng khi có hành vi vi phạm pháp luật của thương nhân gây thiệt hại tới lợi ích nhà nước, lợi ích của nhiều người tiêu dùng, lợi ích công cộng. Việc yêu cầu có thể thực hiện bằng văn bản hoặc yêu cầu trực tiếp.
      b. Về thủ tục tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng: Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được lập thành văn bản, cán bộ phụ trách tiếp nhận có trách nhiệm xem xét và tiếp nhận yêu cầu. Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lời người tiêu dùng được trình bày trực tiếp, cán bộ phụ trách tiếp nhận phải lập thành văn bản và yêu cầu người tiêu dùng hoặc người đại diện của tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng kí tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản đó. Trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thiếu nội dung cần thiết, việc bổ sung phải được thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền [6].
c. Trình tự giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hợp lệ. Cơ quan có thểm quyên phải trả lời theo quy định tại Điều 26 Luật BVQLNTD. Trường hợp phức tạp, thời hạn trả lời có thể gia hạn nhưng không đ


[1] Khoản 2 Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010                    
[2] Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
[3]  Khoản 1 Điều 8 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
[5] Khoản 1 Điều 46 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
[6]  Điều 21 Nghị định của Chính Phủ số 99/20/NĐ-CP ngày 27/10/2011 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ người tiêu dùng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét