Bình luận về Luật thuế bảo vệ môi trường:
1. Thực trạng pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường
ở ViệtNam:
Từ hội nghị
quốc tế về “Môi trường con người” đầu tiên của Liên hợp quốc được tổ chức năm
1972 tại Thuỵ Điển đã thông qua bản kế hoạch hành động về môi trường và khuyến
nghị thành lập chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) và sau Hội nghị
thượng đỉnh Rio 92 (Braxin) đặt vấn đề môi trường trong mối liên kết với các hoạt
động của con nguời theo quan điểm Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững thì
có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết, trong đó nhiều
văn bản đã được Chính phủ Việt Nam tham gia ký kết như Công ước Chicago về hàng
không dân dụng quốc tế, 1944; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967; Công
ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982); Công ước
về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và công việc
tiêu huỷ chúng; Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có
nguy cơ bị đe dọa, 1973 (20/1/1994); Công ước của Liên hợp quốc về sự biến đổi
môi trường (26/8/1980); Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994);
Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987); Nghị định thư
Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1984); Thoả thuận
về mạng lưới các trung tâm thuỷ sản ở Châu Á – Thái Bình Dương, 1988
(2/2/1989); Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải
độc hại và việc loại bỏ chúng (13/5/1995); Công ước khung của Liên hợp quốc về
biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về Đa dạng sinh học, 1992
(16/11/1994)…
Trong hệ thống
pháp luật trong nước, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật,
luật, trong đó Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 thỏng 11 năm 2005là
văn bản quan trọng nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ
luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009… Đồng thời, hàng loạt thông
tư, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện Luật Bảo vệ môi trường đã
được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông
qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập trong các văn bản khác như
Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật
Phát triển và bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về đê
điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản... Tuy nhiên, những văn
bản pháp luật trên chỉ dừng lại ở góc độ chung là bảo vệ nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Riêng đối với các quy định liên quan đến trách nhiệm tài
chính của các chủ thể đối với môi trường thì lại được đề cập rải rác trong nhiều
văn bản như Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (1998, 2005), Pháp lệnh Thuế tài nguyên
(1990), Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (1993), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp
(2005, 2008)...
Như vậy, thực
tế cho thấy, thuế môi trường đang được đề cập ở quá nhiều văn bản nhưng không
mang tính hệ thống và không thể hiện được vai trò tích cực của chính sách thuế
trong vấn đề bảo vệ môi trường cũng như tác động đến trách nhiệm của từng cá
nhân, cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Trong Luật Bảo vệ môi trường năm
2005, tại Điều 112 có quy định về nộp thuế môi trường nhưng trên thực tế chưa
có cơ sở nào để thực hiện.
2. Bình luận luật thuế bảo vệ môi trường.
2.1Đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường
Việc đưa các
sản phẩm, hàng hoá (sau đây gọi chung là hàng hoá) vào đối tượng chịu thuế bảo
vệ môi trường theo các nguyên tắc: Thứ nhất,
phải là những hàng hoá sản xuất, nhập khẩu mà khi sử dụng gây tác động xấu đến
môi trường. Thứ hai, phù hợp với các
cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và với thông lệ quốc tế. Thứ ba, do đây
là loại thuế mới và phức tạp, cần đảm bảo tính khả thi của Luật nên cần xác định
rõ loại hàng hoá để quản lý thu thuế được hiệu quả; phải tính đến sự hài hoà với
phát triển kinh tế, không tác động đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam, đặc
biệt là hàng hoá xuất khẩu.
Trên thực tế, có nhiều hàng hóa mà khi sử dụng gây ô nhiễm với các mức độ
tác động khác nhau đến môi trường, do đó sẽ có rất nhiều loại hàng hoá có thể
phải đưa vào diện chịu thuế bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh, điều
kiện kinh tế - xã hội hiện tại chưa nên đưa tất cả các hàng hóa gây ô nhiễm vào
diện chịu thuế bảo vệ môi trường mà chỉ nên chọn lựa một số hàng hóa gây ô nhiễm
đáp ứng các nguyên tắc nêu trên vào diện chịu thuế môi trường.
Đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường được quy định tại điều 3 Luật thuế
bảo vệ môi trường 2010 và Điều 2 Nghị định
67/2010. Theo đó đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường gồm 8 hàng hóa chịu thuế.
Tuy nhiên có thể xếp chúng thành 5 nhóm hàng hóa sau:
a) Xăng dầu (Xăng các loại, nhiên liệu bay, diesel, dầu hoả, dầu
mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn)
Đây là các sản phẩm có chứa một số chất hoá học như chì, lưu huỳnh,... ngay cả khi chưa sử dụng.các chất chứa trong
các loại xăng dầu đã phát thải ra môi trường và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
Xăng dầu có phạm vi sử dụng rộng rãi, với lượng lớn 15 triệu tấn/năm, nên nguy
cơ ô nhiễm môi trường cũng diễn ra trên diện rộng.
Việc đưa các sản phẩm xăng dầu vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu
khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; khuyến khích sử dụng năng
lượng tái tạo.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới áp dụng thuế bảo vệ môi trường đối với
xăng, dầu. Các nước trong Liên minh Châu Âu đang đánh thuế đối với nhiên liệu
(Xăng 0,42 Euro/lít, dầu Diesel 0,30 Euro/lít); Singapore: 0,4 đôla
Singapore/lít xăng; Nhật Bản: 32,1 Yên Nhật/lít xăng.
b) Than
Khi than được sử dụng cho mục đích đốt cháy sẽ thải ra môi trường các loại
khí như CO2, SO2 đều là các khí gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người. Phạm
vi sử dụng than cũng rộng khắp và với khối lượng gần 30 triệu tấn/năm. Việc đưa
than vào đối tượng chịu thuế cũng nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng
tiết kiệm, hiệu quả; giảm sự phụ thuộc vào năng lượng có nguồn gốc hoá thạch,
khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo. Trung Quốc thu từ 8 đến 37 Nhân dân Tệ/tấn
tùy theo hàm lượng lưu huỳnh trong than; Philipines thu ở mức 10 Pê sô/1 tấn.
c) Môi chất làm lạnh chứa hydro-clo-flo-carbon (Dung dịch HCFC)
Chất HCFC được sử dụng trong một số lĩnh vực công nghiệp như: làm lạnh,
điều hoà không khí,…. Sự phát thải chất HCFC vào khí quyển, làm ô nhiễm bầu
không khí, là nguyên nhân chính làm suy giảm tầng ôzôn và gây hiệu ứng nhà
kính. Nước ta đã tham gia ký kết Nghị định thư Montreal về hạn chế sử dụng các
chất làm suy giảm tầng ôzôn. Theo đó, các nước đang phát triển (trong đó có nước
ta) sẽ phải loại trừ hoàn toàn việc sử dụng HCFC vào năm 2030. Việc đưa chất HCFC vào đối tượng chịu thuế bảo
vệ môi trường sẽ góp phần vào việc thực hiện cam kết Nghị định thư Montreal ở
Việt Nam, khuyến khích doanh nghiệp giảm dần sử dụng HCFC bằng việc chuyển đổi
công nghệ sản xuất.
d) Túi nhựa xốp (túi ni lông)
Túi nhựa xốp phải trải qua thời gian rất lâu để phân hủy (có thể tới
hàng trăm năm) hoặc không thể tự phân hủy được. Túi nhựa xốp thải bỏ sau khi sử
dụng sẽ tích tụ trong đất gây suy thoái môi trường đất. Khi bị phân hủy thì còn
sinh ra các chất làm đất bị trơ, không giữ được độ ẩm và dinh dưỡng cho cây trồng.
Việc đưa túi nhựa xốp vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu nâng cao ý thức bảo
vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi hành vi của người tiêu
dùng trong việc sử dụng túi nhựa xốp, khuyến khích sản xuất các sản phẩm thay
thế thân thiện hơn với môi trường.
Hiện nay, có nhiều nước trên thế giới đã thu thuế đối với các sản phẩm
nhựa như: Anh, Ailen, Đài Loan,... Một số nước khác cấm sử dụng sản phẩm túi nhựa
trong các thành phố lớn như Bắc Kinh (Trung Quốc).
e) Thuốc bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế
sử dụng
Đây là những hợp chất độc có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp từ các
chất hóa học được dùng để phòng trừ dịch hại trên cây trồng và bảo quản nông sản.
Hiện nay, việc sử dụng đúng cách, đúng liều lượng thuốc bảo vệ thực vật chưa được
quan tâm do giá của nhiều loại còn tương đối rẻ so với giá nông sản. Những hành
vi sử dụng không đúng cách, không đúng liều lượng hóa chất bảo vệ thực vật có
thể ảnh hưởng tới môi trường theo rất nhiều cách, ví dụ như các hoá chất lơ lửng
trong không khí khi phun thuốc hay tồn tại trong các loại thực phẩm, trong nước,
đất, ... Việc đưa hoá chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng vào đối
tượng chịu thuế nhằm nâng cao nhận thức của người sử dụng, khuyến khích họ thay
đổi thói quen sử dụng lạm dụng, giảm thiểu những tác hại xấu của hoá chất bảo vệ
thực vật đối với môi trường. Hiện nay, một số nước như Đan Mạch, Bỉ cũng áp dụng
thuế bảo vệ môi trường đối với các sản phẩm hoá chất bảo vệ thực vật.
2.2.
Đối
tượng không chịu thuế.
Các hàng hóa được lựa chọn đưa vào đối tượng chịu thuế là những hàng hóa
được sản xuất, nhập khẩu khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Do đó, đối
với các hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế môi trường nhưng không được sử
dụng ở Việt Nam trong các trường hợp dưới đây thì sẽ được đưa vào đối tượng
không chịu thuế. Cụ thể đối tượng không chịu thuế được quy định tại Điều 4 Luật thuế bảo vệ môi trường 2010
bao gồm :
“1. Hàng hóa không quy định tại Điều
3 của Luật này không thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường.
2. Hàng hóa quy định tại Điều 3 của Luật
này không chịu thuế bảo vệ môi trường trong các trường hợp sau:
a) Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc chuyển
khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam theo quy định của pháp luật, bao gồm hàng
hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu qua cửa khẩu Việt Nam
nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu
ra khỏi Việt Nam; hàng hóa quá cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam trên cơ sở
Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc thỏa thuận
giữa cơ quan, người đại diện được Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài ủy
quyền theo quy định của pháp luật;
b) Hàng hóa tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu
trong thời hạn theo quy định của pháp luật;
c) Hàng hóa do cơ sở sản xuất trực tiếp xuất
khẩu hoặc ủy thác cho cơ sở kinh doanh xuất khẩu để xuất khẩu, trừ trường hợp tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân mua hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi
trường để xuất khẩu.”
2.3 Người nộp thuế
Người nộp thuế
được quy định rõ tại Điều 5 Luật thuế bảo vệ môi trường 2010 : Người nộp thuế bảo
vệ môi trường là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc
đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này.
Người nộp thuế
bảo vệ môi trường trong một số trường hợp cụ thể được quy định như sau: Trường
hợp ủy thác nhập khẩu hàng hóa thì người nhận ủy thác nhập khẩu là người nộp
thuế; Trường hợp tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân làm đầu mối thu mua than khai thác nhỏ, lẻ mà không xuất trình được
chứng từ chứng minh hàng hóa đã được nộp thuế bảo vệ môi trường thì tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế.
Như vậy, người
nộp thuế quy định rõ là chủ thể có hành vi sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối
tượng chịu thuế thì phải nộp thuế. Thuế bảo vệ môi trường là thuế trực thu nên
người chịu thuế và người nộp thuế là cùng một chủ thể một số trường hợp ngoại kệ
được quy định tại khoản 2 Điều 5.
2.4 Căn
cứ tính thuế
1.Căn cứ tính thuế : Căn cứ
tính thuế là số lượng hàng hoá tính thuế và mức thuế tuyệt đối
Thuế suất
theo mức tuyệt đối có ưu điểm là đơn giản, minh bạch trong thực hiện, bảo đảm ổn
định số thu NSNN (số thu ổn định không phụ thuộc vào sự biến động của giá hàng
hoá). Áp dụng mức thuế tuyệt đối cũng có nhược điểm là khi giá sản phẩm chịu
thuế tăng cao thì số thu thuế không tăng kịp thời theo giá. Thực tế chính sách
thuế hiện hành đã qui định mức thuế tuyệt đối cho ô tô đã qua sử dụng nhập
khẩu; các khoản phí, lệ phí (phí xăng dầu, phí bảo vệ môi trường
đối với khai thác khoáng sản...). Do đó, Chính phủ đề xuất áp dụng mức
thuế tuyệt đối đối với thuế bảo vệ môi trường nhằm phù hợp mục tiêu thu thuế
để giảm tác động xấu đến môi trường.
2. Số lượng hàng hoá tính thuế: Được qui định
cụ thể đối với từng loại hàng hoá (hàng hoá sản xuất trong nước, nhập khẩu) để
phù hợp với đặc thù của sản xuất hàng hoá, tạo thuận lợi và hạn chế việc phát
sinh chi phí trong quản lý thu thuế bảo vệ môi trường. Cụ thể:
Ø Đối
với hàng hoá sản xuất trong nước, số lượng hàng hoá tính thuế là số lượng hàng
hoá sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu tặng.
Ø Đối
với hàng hoá nhập khẩu, số lượng hàng hoá tính thuế là số lượng hàng hoá nhập
khẩu thể hiện trên tờ khai hàng hóa nhập khẩu.
3.
Mức thuế: Thuế bảo vệ môi trường được qui định theo mức thuế tuyệt đối bằng
số tiền trên đơn vị hàng hoá.
4. Biểu khung thuế
Thuế bảo vệ
môi trường là sắc thuế lần đầu tiên được xây dựng. Để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc điều hành và thực thi chính sách thuế mới được thuận lợi, Luật qui định
Biểu khung thuế bảo vệ môi trường với mức thuế tuyệt đối tối thiểu và mức thuế
tuyệt đối tối đa.
Các mức thuế
tuyệt đối tối thiểu và tối đa được xây dựng theo nguyên tắc phân biệt theo mức
độ gây tác động xấu đến môi trường và có tính đến việc kế thừa chính sách thu
hiện hành (phí xăng dầu, phí bảo vệ môi trường) để không tác động lớn đến sản
xuất, tiêu dùng, không xáo trộn việc quản lý thu thuế.
2.5Khai thuế, tính thuế, nộp và hoàn
thuế
Khai
thuế, tính thuế, nộp thuế: Việc khai thuế, tính thuế, nộp
thuế bảo vệ môi trường đối với hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội
bộ, tặng cho được thực hiện theo tháng và theo quy định của pháp luật về quản
lý thuế; Việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế bảo vệ môi trường đối với hàng hóa
nhập khẩu được thực hiện cùng thời điểm với khai thuế và nộp thuế nhập khẩu;
Thuế bảo vệ môi trường chỉ nộp một lần đối với hàng hóa sản xuất hoặc nhập khẩu.
Hoàn
thuế: Người nộp thuế bảo vệ môi trường được hoàn thuế đã nộp trong các
trường hợp sau: Hàng hóa nhập khẩu còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang chịu
sự giám sát của cơ quan Hải quan được tái xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hóa nhập
khẩu để giao, bán cho nước ngoài thông qua đại lý tại Việt Nam; xăng, dầu bán
cho phương tiện vận tải của hãng nước ngoài trên tuyến đường qua cảng Việt Nam
hoặc phương tiện vận tải của Việt Nam trên tuyến đường vận tải quốc tế theo quy
định của pháp luật; Hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu theo phương thức
kinh doanh hàng tạm nhập, tái xuất. Hàng hóa nhập khẩu do người nhập khẩu tái
xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm,
giới thiệu sản phẩm theo quy định của pháp luật khi tái xuất khẩu ra nước ngoài.
KẾT
LUẬN
Những năm gần
đây, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm bộc lộ rõ tính thiếu bền vững của hệ
thống kinh tế thế giới cũng như mô hình tăng trưởng của nhiều nước là “tăng trưởng
trước, làm sạch sau”. Điều này đặt ra yêu cầu ngày càng cấp bách về phát triển
kinh tế bền vững bởi: Với mục tiêu tăng trưởng nhanh và phụ thuộc vào tài
nguyên, năng lượng hoá thạch đã làm tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng không
tái tạo và gây tổn hại môi trường sinh thái; Khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng
với thách thức an ninh năng lượng và tình trạng biến đổi khí hậu có nguy cơ trở
thành khủng hoảng xã hội và môi trường;
Khủng hoảng đã thúc đẩy nhiều nước tăng cường đổi mới công nghệ, tái cơ
cấu kinh tế theo hướng giảm dần các ngành, công nghệ tiêu hao nhiều năng lượng,
tài nguyên để nâng cao năng lực cạnh tranh và giành vị thế có lợi trong kinh tế
thế giới sau khủng hoảng. Vì vậy, xu hướng phát triển kinh tế bền vững, ít gây
ô nhiễm ngày càng được quan tâm và trở thành một trong những ưu tiên của nhiều
nước. Vì vậy, Luật thuế bảo vệ môi trường với mục tiêu nhằm nâng cao ý thức bảo
vệ môi trường của toàn xã hội là cần thiết, phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội
hiện tại của Việt Nam và xu hướng phát triển kinh tế của thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét