Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Bình luận về Luật thuế bảo vệ môi trường

Bình luận về Luật thuế bảo vệ môi trường:
1. Thực trạng pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường ở ViệtNam:
Từ hội nghị quốc tế về “Môi trường con người” đầu tiên của Liên hợp quốc được tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển đã thông qua bản kế hoạch hành động về môi trường và khuyến nghị thành lập chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) và sau Hội nghị thượng đỉnh Rio 92 (Braxin) đặt vấn đề môi trường trong mối liên kết với các hoạt động của con nguời theo quan điểm Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững thì có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết, trong đó nhiều văn bản đã được Chính phủ Việt Nam tham gia ký kết như Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế, 1944; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967; Công ước liên quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982); Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và công việc tiêu huỷ chúng; Công ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973 (20/1/1994); Công ước của Liên hợp quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980); Công ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994); Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987); Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1984); Thoả thuận về mạng lưới các trung tâm thuỷ sản ở Châu Á – Thái Bình Dương, 1988 (2/2/1989); Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng (13/5/1995); Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về Đa dạng sinh học, 1992 (16/11/1994)…
Trong hệ thống pháp luật trong nước, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều bộ luật, luật, trong đó Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 thỏng 11 năm 2005là văn bản quan trọng nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009… Đồng thời, hàng loạt thông tư, quyết định của các ngành chức năng về thực hiện Luật Bảo vệ môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản... Tuy nhiên, những văn bản pháp luật  trên chỉ dừng lại ở góc độ chung là bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Riêng đối với các quy định liên quan đến trách nhiệm tài chính của các chủ thể đối với môi trường thì lại được đề cập rải rác trong nhiều văn bản như Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (1998, 2005), Pháp lệnh Thuế tài nguyên (1990), Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp (1993), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (2005, 2008)...
Như vậy, thực tế cho thấy, thuế môi trường đang được đề cập ở quá nhiều văn bản nhưng không mang tính hệ thống và không thể hiện được vai trò tích cực của chính sách thuế trong vấn đề bảo vệ môi trường cũng như tác động đến trách nhiệm của từng cá nhân, cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, tại Điều 112 có quy định về nộp thuế môi trường nhưng trên thực tế chưa có cơ sở nào để thực hiện.

2. Bình luận luật thuế bảo vệ môi trường.
2.1Đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường
Việc đưa các sản phẩm, hàng hoá (sau đây gọi chung là hàng hoá) vào đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường theo các nguyên tắc: Thứ nhất, phải là những hàng hoá sản xuất, nhập khẩu mà khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thứ hai, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia và với thông lệ quốc tế. Thứ ba, do đây là loại thuế mới và phức tạp, cần đảm bảo tính khả thi của Luật nên cần xác định rõ loại hàng hoá để quản lý thu thuế được hiệu quả; phải tính đến sự hài hoà với phát triển kinh tế, không tác động đến năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu.
Trên thực tế, có nhiều hàng hóa mà khi sử dụng gây ô nhiễm với các mức độ tác động khác nhau đến môi trường, do đó sẽ có rất nhiều loại hàng hoá có thể phải đưa vào diện chịu thuế bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại chưa nên đưa tất cả các hàng hóa gây ô nhiễm vào diện chịu thuế bảo vệ môi trường mà chỉ nên chọn lựa một số hàng hóa gây ô nhiễm đáp ứng các nguyên tắc nêu trên vào diện chịu thuế môi trường.
Đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường được quy định tại điều 3 Luật thuế bảo vệ môi trường 2010 và  Điều 2 Nghị định 67/2010. Theo đó đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường gồm 8 hàng hóa chịu thuế. Tuy nhiên có thể xếp chúng thành 5 nhóm hàng hóa sau:
a) Xăng dầu (Xăng các loại, nhiên liệu bay, diesel, dầu hoả, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn)
Đây là các sản phẩm có chứa một số chất hoá học như chì, lưu huỳnh,...  ngay cả khi chưa sử dụng.các chất chứa trong các loại xăng dầu đã phát thải ra môi trường và gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Xăng dầu có phạm vi sử dụng rộng rãi, với lượng lớn 15 triệu tấn/năm, nên nguy cơ ô nhiễm môi trường cũng diễn ra trên diện rộng.
Việc đưa các sản phẩm xăng dầu vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới áp dụng thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu. Các nước trong Liên minh Châu Âu đang đánh thuế đối với nhiên liệu (Xăng 0,42 Euro/lít, dầu Diesel 0,30 Euro/lít); Singapore: 0,4 đôla Singapore/lít xăng; Nhật Bản: 32,1 Yên Nhật/lít xăng.
b) Than
Khi than được sử dụng cho mục đích đốt cháy sẽ thải ra môi trường các loại khí như CO2, SO2 đều là các khí gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người. Phạm vi sử dụng than cũng rộng khắp và với khối lượng gần 30 triệu tấn/năm. Việc đưa than vào đối tượng chịu thuế cũng nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; giảm sự phụ thuộc vào năng lượng có nguồn gốc hoá thạch, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo. Trung Quốc thu từ 8 đến 37 Nhân dân Tệ/tấn tùy theo hàm lượng lưu huỳnh trong than; Philipines thu ở mức 10 Pê sô/1 tấn.
c) Môi chất làm lạnh chứa hydro-clo-flo-carbon (Dung dịch HCFC)
Chất HCFC được sử dụng trong một số lĩnh vực công nghiệp như: làm lạnh, điều hoà không khí,…. Sự phát thải chất HCFC vào khí quyển, làm ô nhiễm bầu không khí, là nguyên nhân chính làm suy giảm tầng ôzôn và gây hiệu ứng nhà kính. Nước ta đã tham gia ký kết Nghị định thư Montreal về hạn chế sử dụng các chất làm suy giảm tầng ôzôn. Theo đó, các nước đang phát triển (trong đó có nước ta) sẽ phải loại trừ hoàn toàn việc sử dụng HCFC vào năm 2030.  Việc đưa chất HCFC vào đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường sẽ góp phần vào việc thực hiện cam kết Nghị định thư Montreal ở Việt Nam, khuyến khích doanh nghiệp giảm dần sử dụng HCFC bằng việc chuyển đổi công nghệ sản xuất. 
d) Túi nhựa xốp (túi ni lông)
Túi nhựa xốp phải trải qua thời gian rất lâu để phân hủy (có thể tới hàng trăm năm) hoặc không thể tự phân hủy được. Túi nhựa xốp thải bỏ sau khi sử dụng sẽ tích tụ trong đất gây suy thoái môi trường đất. Khi bị phân hủy thì còn sinh ra các chất làm đất bị trơ, không giữ được độ ẩm và dinh dưỡng cho cây trồng. Việc đưa túi nhựa xốp vào đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi hành vi của người tiêu dùng trong việc sử dụng túi nhựa xốp, khuyến khích sản xuất các sản phẩm thay thế thân thiện hơn với môi trường.
Hiện nay, có nhiều nước trên thế giới đã thu thuế đối với các sản phẩm nhựa như: Anh, Ailen, Đài Loan,... Một số nước khác cấm sử dụng sản phẩm túi nhựa trong các thành phố lớn như Bắc Kinh (Trung Quốc).
e) Thuốc bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng
Đây là những hợp chất độc có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp từ các chất hóa học được dùng để phòng trừ dịch hại trên cây trồng và bảo quản nông sản. Hiện nay, việc sử dụng đúng cách, đúng liều lượng thuốc bảo vệ thực vật chưa được quan tâm do giá của nhiều loại còn tương đối rẻ so với giá nông sản. Những hành vi sử dụng không đúng cách, không đúng liều lượng hóa chất bảo vệ thực vật có thể ảnh hưởng tới môi trường theo rất nhiều cách, ví dụ như các hoá chất lơ lửng trong không khí khi phun thuốc hay tồn tại trong các loại thực phẩm, trong nước, đất, ... Việc đưa hoá chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng vào đối tượng chịu thuế nhằm nâng cao nhận thức của người sử dụng, khuyến khích họ thay đổi thói quen sử dụng lạm dụng, giảm thiểu những tác hại xấu của hoá chất bảo vệ thực vật đối với môi trường. Hiện nay, một số nước như Đan Mạch, Bỉ cũng áp dụng thuế bảo vệ môi trường đối với các sản phẩm hoá chất bảo vệ thực vật.
2.2.         Đối tượng không chịu thuế.
Các hàng hóa được lựa chọn đưa vào đối tượng chịu thuế là những hàng hóa được sản xuất, nhập khẩu khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Do đó, đối với các hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế môi trường nhưng không được sử dụng ở Việt Nam trong các trường hợp dưới đây thì sẽ được đưa vào đối tượng không chịu thuế. Cụ thể đối tượng không chịu thuế được quy định  tại Điều 4 Luật thuế bảo vệ môi trường 2010 bao gồm :
1. Hàng hóa không quy định tại Điều 3 của Luật này không thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường.
2. Hàng hóa quy định tại Điều 3 của Luật này không chịu thuế bảo vệ môi trường trong các trường hợp sau:
a) Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc chuyển khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam theo quy định của pháp luật, bao gồm hàng hóa được vận chuyển từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu qua cửa khẩu Việt Nam nhưng không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam; hàng hóa quá cảnh qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam trên cơ sở Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc thỏa thuận giữa cơ quan, người đại diện được Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài ủy quyền theo quy định của pháp luật;
b) Hàng hóa tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu trong thời hạn theo quy định của pháp luật;
c) Hàng hóa do cơ sở sản xuất trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác cho cơ sở kinh doanh xuất khẩu để xuất khẩu, trừ trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mua hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường để xuất khẩu.”
2.3 Người nộp thuế
Người nộp thuế được quy định rõ tại Điều 5 Luật thuế bảo vệ môi trường 2010 : Người nộp thuế bảo vệ môi trường là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này.
Người nộp thuế bảo vệ môi trường trong một số trường hợp cụ thể được quy định như sau: Trường hợp ủy thác nhập khẩu hàng hóa thì người nhận ủy thác nhập khẩu là người nộp thuế; Trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua than khai thác nhỏ, lẻ mà không xuất trình được chứng từ chứng minh hàng hóa đã được nộp thuế bảo vệ môi trường thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân làm đầu mối thu mua là người nộp thuế.
Như vậy, người nộp thuế quy định rõ là chủ thể có hành vi sản xuất, nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế thì phải nộp thuế. Thuế bảo vệ môi trường là thuế trực thu nên người chịu thuế và người nộp thuế là cùng một chủ thể một số trường hợp ngoại kệ được quy định tại khoản 2 Điều 5.
2.4 Căn cứ tính thuế
1.Căn cứ tính thuế : Căn cứ tính thuế là số lượng hàng hoá tính thuế và mức thuế tuyệt đối
Thuế suất theo mức tuyệt đối có ưu điểm là đơn giản, minh bạch trong thực hiện, bảo đảm ổn định số thu NSNN (số thu ổn định không phụ thuộc vào sự biến động của giá hàng hoá). Áp dụng mức thuế tuyệt đối cũng có nhược điểm là khi giá sản phẩm chịu thuế tăng cao thì số thu thuế không tăng kịp thời theo giá. Thực tế chính sách thuế hiện hành đã qui định mức thuế tuyệt đối cho ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu; các khoản phí, lệ phí (phí xăng dầu, phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản...). Do đó, Chính phủ đề xuất áp dụng mức thuế tuyệt đối đối với thuế bảo vệ môi trường nhằm phù hợp mục tiêu thu thuế để giảm tác động xấu đến môi trường.
2. Số lượng hàng hoá tính thuế: Được qui định cụ thể đối với từng loại hàng hoá (hàng hoá sản xuất trong nước, nhập khẩu) để phù hợp với đặc thù của sản xuất hàng hoá, tạo thuận lợi và hạn chế việc phát sinh chi phí trong quản lý thu thuế bảo vệ môi trường. Cụ thể:       
Ø Đối với hàng hoá sản xuất trong nước, số lượng hàng hoá tính thuế là số lượng hàng hoá sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu tặng.
Ø Đối với hàng hoá nhập khẩu, số lượng hàng hoá tính thuế là số lượng hàng hoá nhập khẩu thể hiện trên tờ khai hàng hóa nhập khẩu.
3. Mức thuế: Thuế bảo vệ môi trường được qui định theo mức thuế tuyệt đối bằng số tiền trên đơn vị hàng hoá.
4.  Biểu khung thuế
Thuế bảo vệ môi trường là sắc thuế lần đầu tiên được xây dựng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành và thực thi chính sách thuế mới được thuận lợi, Luật qui định Biểu khung thuế bảo vệ môi trường với mức thuế tuyệt đối tối thiểu và mức thuế tuyệt đối tối đa.
Các mức thuế tuyệt đối tối thiểu và tối đa được xây dựng theo nguyên tắc phân biệt theo mức độ gây tác động xấu đến môi trường và có tính đến việc kế thừa chính sách thu hiện hành (phí xăng dầu, phí bảo vệ môi trường) để không tác động lớn đến sản xuất, tiêu dùng, không xáo trộn việc quản lý thu thuế.
2.5Khai thuế, tính thuế, nộp và hoàn thuế
Khai thuế, tính thuế, nộp thuế: Việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế bảo vệ môi trường đối với hàng hóa sản xuất bán ra, trao đổi, tiêu dùng nội bộ, tặng cho được thực hiện theo tháng và theo quy định của pháp luật về quản lý thuế; Việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế bảo vệ môi trường đối với hàng hóa nhập khẩu được thực hiện cùng thời điểm với khai thuế và nộp thuế nhập khẩu; Thuế bảo vệ môi trường chỉ nộp một lần đối với hàng hóa sản xuất hoặc nhập khẩu.
Hoàn thuế: Người nộp thuế bảo vệ môi trường được hoàn thuế đã nộp trong các trường hợp sau: Hàng hóa nhập khẩu còn lưu kho, lưu bãi tại cửa khẩu và đang chịu sự giám sát của cơ quan Hải quan được tái xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hóa nhập khẩu để giao, bán cho nước ngoài thông qua đại lý tại Việt Nam; xăng, dầu bán cho phương tiện vận tải của hãng nước ngoài trên tuyến đường qua cảng Việt Nam hoặc phương tiện vận tải của Việt Nam trên tuyến đường vận tải quốc tế theo quy định của pháp luật; Hàng hóa tạm nhập khẩu để tái xuất khẩu theo phương thức kinh doanh hàng tạm nhập, tái xuất. Hàng hóa nhập khẩu do người nhập khẩu tái xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hóa tạm nhập khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm theo quy định của pháp luật khi tái xuất khẩu ra nước ngoài.
KẾT LUẬN
Những năm gần đây, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm bộc lộ rõ tính thiếu bền vững của hệ thống kinh tế thế giới cũng như mô hình tăng trưởng của nhiều nước là “tăng trưởng trước, làm sạch sau”. Điều này đặt ra yêu cầu ngày càng cấp bách về phát triển kinh tế bền vững bởi: Với mục tiêu tăng trưởng nhanh và phụ thuộc vào tài nguyên, năng lượng hoá thạch đã làm tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng không tái tạo và gây tổn hại môi trường sinh thái; Khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng với thách thức an ninh năng lượng và tình trạng biến đổi khí hậu có nguy cơ trở thành khủng hoảng xã hội và môi trường;  Khủng hoảng đã thúc đẩy nhiều nước tăng cường đổi mới công nghệ, tái cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần các ngành, công nghệ tiêu hao nhiều năng lượng, tài nguyên để nâng cao năng lực cạnh tranh và giành vị thế có lợi trong kinh tế thế giới sau khủng hoảng. Vì vậy, xu hướng phát triển kinh tế bền vững, ít gây ô nhiễm ngày càng được quan tâm và trở thành một trong những ưu tiên của nhiều nước. Vì vậy, Luật thuế bảo vệ môi trường với mục tiêu nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội là cần thiết, phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại của Việt Nam và xu hướng phát triển kinh tế của thế giới.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét