Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong giao dịch thương mại quốc tế


1.Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
Tính từ năm 1988 đến năm 2008, Việt Nam đã có bước tiến đầy ấn tượng về tăng trưởng xuất khẩu cả về kim ngạch và khối lượng hàng hóa cũng như cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên tổng GDP của Việt Nam đã tăng từ 30% vào đầu thập kỷ 1990 lên đến 70% vào năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình trong toàn giai đoạn này khoảng 19%/năm. Mặc dù quá trình thay đổi này diễn ra với tốc độ còn khiêm tốn nhưng đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững hoạt động xuất khẩu và ổn định kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt trong năm 2009 khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến hàng loạt các thị trường xuất khẩu quan trọng của nước ta.
Thị trường hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam ngày càng được mở rộng về quy mô và số lượng. Nếu như năm 2002 chỉ có 4 nước có kim ngạch xuất khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD là Hoa Kỳ, Nhật, Trung Quốc, Australia thì đến năm 2006 đã tăng lên thành 8 nước (thêm Malaysia, Singapore, Anh, Đức), và tính đến năm 2008 có thêm 3 nước và vùng lãnh thổ là Đài Loan, Thái Lan, Indonexia. Tuy chỉ chiếm khoảng 5% trong số các thị trường Việt Nam có quan hệ xuất khẩu nhưng tổng giá trị của các thị trường này đạt gần 35 tỷ USD (chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Nhìn chung, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu vẫn là các bạn hàng lớn nhất và cũng là các thị trường chính cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như nông sản, thủy sản, dệt may và giày dép.
Biểu đồ 1 – Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang một số thị trường lớn
Nguồn: Báo cáo Tổng kết Tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2009 và Kế hoạch 2010 của Ngành Công thương
Năm 2011, Việt Nam tiếp tục xuất siêu mạnh sang thị trường Hoa Kỳ với 5,55 tỷ USD, tương ứng tăng 976 triệu USD so với năm 2010. Tiếp theo là thị trường Campuchia và Anh với 857 triệu USD và 825 triệu USD. Thị trường Nam Phi trong 6 tháng cũng đã đạt được mức thặng dư lên tới 754 triệu USD, tăng 607 triệu USD.
Biểu đồ 2: Một số thị trường xuất siêu chính của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2011
Nguồn: Tổng cục thống kê
Về nhập khẩu, nước ta nhập siêu chủ yếu từ các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN. Đa số nguyên nhiên phụ liệu, vật tư và thiết bị máy móc được nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Xinh-ga-po, và Thái Lan do lợi thế về vận tải, giá cả và tính phù hợp. Đặc biệt, ASEAN và Trung Quốc vẫn là những đối tác cung ứng lớn nhất cho nước ta, với tỷ trọng trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng từ khoảng 31,9% năm 1995 lên 45,3% năm 2007, 43,4% năm 2008 và 43% năm 2009. Riêng tỷ trọng của Trung Quốc đã tăng từ 14,2% giai đoạn 2001-2006 lên trên 19% năm 2007 và năm 2008, và vọt lên tới 23,2% trong năm 2009. Trung Quốc là nhà cung cấp lớn nhất các mặt hàng thuộc nhóm máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, các mặt hàng thuộc nhóm máy tính, sản phẩm điện tử, linh kiện và một số nhóm hàng khác. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh Châu Âu chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ nguồn và một số nguyên vật liệu phụ trợ, nhưng lượng nhập còn khiêm tốn.
Biểu đồ 3: Một số thị trường nhập siêu chính của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2011

Nguồn: Tổng cục thống kê
2. Các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện ngày càng nhiều bởi cả hai nhóm doanh nghiệp của Việt Nam: doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam cũng tăng nhanh qua từng thời kỳ, cụ thể là vào năm 1995, con số này là 5,5 tỷ đô la Mỹ, đến năm 2000 là 14,5 tỷ, năm 2005 tăng lên 32,5 tỷ và đến năm 2010 đạt 72,2 tỷ đô la Mỹ[1]. Điều này khẳng định tầm quan trọng của hoạt đồng xuất khẩu hàng hóa trong việc phát triển kinh tế của Việt Nam.
Các giao dịch thương mại quốc tế thường được thể hiện qua hợp đồng. Có một thực tế là mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngày càng nhiều vào các giao dịch này nhưng vị thế của các doanh nghiệp trong giao kết và thực hiện hợp đồng vẫn còn khá thấp. Điều này chủ yếu do kinh nghiệm đàm phán và ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài còn non yếu, nhiều doanh nghiệp không nắm được nguyên tắc khi giao kết với khách hàng, thường với những hợp đồng có giá trị lớn phải dựa vào dự thảo do đối tác đưa ra. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam dù chưa nắm rõ pháp luật nước ngoài hay tập quán quốc tế, song do đối tác  nước ngoài luôn muốn áp dụng luật nước ngoài trong hợp đồng, nên doanh nghiệp dù không muốn vẫn phải chấp thuận các điều khoản của đối tác đưa ra.
3.      Thực tế tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Theo nhận định của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), số vụ tranh chấp giữa doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài trong các giao dịch thương mại tăng lên rõ rệt vài năm trở lại đây. Từ năm 2002 đến năm 2008, VIAC đã giải quyết 198 vụ kiện, trong đó có 149 vụ tranh chấp quốc tế. Tranh chấp không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng cả về giá trị. Số vụ có giá trị tranh chấp lớn từ 2 đến 5 triệu USD ngày càng nhiều. Đa số doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị tốt cho các tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh vì thiếu hiểu biết về pháp luật. Do đó, khi gặp phải rủi ro, nhiều doanh nghiệp thường chấp nhận phần thua thiệt. Trong số các vụ tranh chấp về mua bán hàng hóa quốc tế được đưa ra VIAC, có tới trên 80% các vụ tranh chấp mà thỏa thuận giữa các bên không quy định luật áp dụng. Trong những trường hợp như vậy, các trọng tài đã phải rất vất vả để xác định luật áp dụng cụ thể trong những trường hợp đó là luật nào và phải giải thích ra sao.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ tranh chấp liên quan đến Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại VIAC
Nguồn: VIAC – Số liệu thống kê giai đoạn 1993-2010
Biểu đồ 5: Tỷ lệ tranh chấp liên quan đến luật áp dụng trong số các tranh chấp liên quan đến Hợp đồng xuất nhập khẩu tại VIAC
Nguồn: VIAC – Số liệu thống kê giai đoạn 1993-2010
Nếu như theo thống kê ở trên, rất nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt Nam như EU, Hoa Kỳ, Canada, Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinh-ga-po... đều đã tham gia Công ước Viên, thì trong các tranh chấp thương mại quốc tế, có tới hơn 60% tổng số vụ mà bên đối tác nước ngoài là doanh nghiệp của nước đã tham gia Công ước.
Biểu đồ 6: Quốc tịch các bên nước ngoài trong các tranh chấp tại VIAC
Nguồn: VIAC – Số liệu thống kê giai đoạn 1993-2010
Trong hợp đồng thương mại hiện nay về điều khoản giải quyết tranh chấp, các doanh nghiệp trong nước thì thường hay chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân có thẩm quyền vì các doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng trọng tài khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, họ cho rằng quyết định của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn quyết định của trọng tài, đồng thời chưa tin tưởng về hiệu lực thi hành các quyết định trọng tài và chưa nhận biết được tính ưu việt hơn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với bằng Tòa án. Ngược lại, các doanh nghiệp nước ngoài khi ký kết hợp đồng mua bán hay cung cấp dịch vụ với các doanh nghiệp trong nước thì thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhiều hơn hình thức giải quyết bằng Tòa án vì họ đã nhận thức đầy đủ các ưu thế của Trọng tài. Song, họ lại lựa chọn trọng tài nước ngoài nhiều hơn là trọng tài Việt Nam, chỉ một số ít mới lựa chọn sử dụng Tòa án khi giải quyết tranh chấp.




[1] Số liệu của Tổng cục Thống kê.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét