So sánh nội dung Công ước Viên 1980 và
pháp luật hợp đồng của Việt Nam
1. Phạm vi điều chỉnh và các điều khoản chung của CISG
1.1. Phạm vi điều chỉnh (Điều 1-6 CISG)
Điều 1(1)(a) quy định Công ước được áp dụng đối với những hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở
kinh doanh ở các nước khác nhau và những nước này là thành viên Công ước. Dấu
hiệu “lãnh thổ” của các bên ký kết (chứ không phải dấu hiệu về quốc tịch hay
các dấu hiệu khác) được dùng để xác định tính quốc tế của hợp đồng. Công ước không có định nghĩa cụ thể về “trụ sở
kinh doanh”, mặc dù tại Điều 10 Công ước ghi nhận trường hợp nếu một bên có nhiều
hơn một trụ sở kinh doanh thì trụ sở kinh doanh là trụ sở có mối liên hệ chặt
chẽ nhất với hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng; và trường hợp nếu một bên
không có trụ sở kinh doanh thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên của họ làm căn cứ
xác định.
Căn cứ thứ hai có thể được sử dụng để xác định phạm vi điều chỉnh
của Công ước được ghi nhận tại Điều 1(1)(b) là khi quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một nước
thành viên Công ước. Một số nước [1] đã loại
trừ khả năng áp dụng của Điều 1(1)(b) bằng việc đưa ra tuyên bố bảo lưu theo Điều
95.
Căn cứ cuối cùng cho việc áp dụng Công ước
là các bên trong hợp đồng nhìn chung được tự do chọn Công ước làm luật
áp dụng và theo Điều 6 thì còn có thể không
áp dụng Công ước, hoặc làm khác/thay đổi hiệu lực áp dụng của bất kỳ điều khoản
nào của Công ước[2].
Theo pháp luật Việt Nam ,
mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại
2005 và pháp luật có liên quan[3].
Ngoài ra, các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận
áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế, nếu pháp luật nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam [4].
Đối với hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong
các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự[5].
Khi đó, hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định
của Bộ luật dân sự áp dụng đối với quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung[6].
Theo khoản 1 Điều 27 Luật Thương mại 2005, “mua bán hàng hóa quốc
tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất,
tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Luật Thương mại không đưa ra tiêu chí để xác định
tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa mà liệt kê những hoạt động được
coi là mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái
xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu. Có thể coi quy định này tương đương với quy định
của Công ước trong việc xác định tính quốc tế của hợp đồng, theo đó sự dịch
chuyển hàng hóa qua biên giới/qua khu vực hải quan riêng, hay dấu hiệu lãnh thổ
của các bên là căn cứ để xác định.
Điều 4 Công ước tiếp tục làm rõ phạm vi điều
chỉnh của Công ước giới hạn ở việc giao kết hợp đồng mua bán, quyền và nghĩa vụ
của các bên phát sinh từ hợp đồng đó. Đối với tính hiệu lực của hợp đồng và hệ
quả của hợp đồng đối với quyền sở hữu hàng hóa đã bán không được Công ước
điều chỉnh.
Trong khi đó, Luật Thương mại 2005 có quy định
về thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng
hóa[7],
theo đó quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng
hóa được chuyển giao. Luật Thương mại không có quy định về vấn đề hiệu lực của hợp đồng. Do đó, có thể dẫn
chiếu đến quy định của Bộ luật dân sự về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự. Theo đó một giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện
sau : (i) người tham gia giao dịch
có đủ năng lực hành vi dân sự ; (ii) mục đích và nội dung của giao dịch
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội ; (iii)
người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện ; (iv) hình thức giao dịch
dân sự phù hợp với quy định của pháp luật.
1.2. Các quy định chung (Điều 7-13)
Điều 7 Công ước liên quan đến việc giải
thích CISG, quy định việc giải thích phải nhằm thúc đẩy sự áp dụng thống nhất
Công ước và tôn trọng nguyên tắc thiện chí trong thương mại quốc tế. Nguyên tắc thiện chí là một nguyên tắc
quan trọng trong pháp luật dân sự. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Bộ
luật dân sự Việt Nam [8].
Các vấn đề thuộc đối tượng điều chỉnh của
Công ước mà không có quy định rõ ràng trong Công ước để giải quyết thì sẽ áp dụng
các nguyên tắc chung mà Công ước dẫn chiếu, trong trường hợp không có các
nguyên tắc này thì sẽ áp dụng luật quốc gia mà quy phạm tư pháp quốc tế dẫn chiếu.
Trong khi đó, Luật Thương mại ghi nhận về trường hợp pháp luật không có quy định,
các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các
bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc
quy định trong Luật Thương mại và Bộ luật dân sự [9].
Bộ luật dân sự cũng quy định trong trường hợp pháp luật không có quy định và
các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán
thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của
pháp luật không được trái với những nguyên tắc của Bộ luật dân sự [10].
Điều 11 đến điều 13 CISG đề cập đến việc
liệu một hợp đồng có cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay không,
và thừa nhận thực tế telex và điện tín được coi như hình thức văn bản trong
pháp luật hợp đồng. Điều 11 CISG đi theo cách tiếp cận rằng các hợp đồng không nhất thiết phải thể hiện bằng hình thức
văn bản. Tu y nhiên Điều 12 và 96
CISG ghi nhận bất cứ nước thành viên nào cũng có quyền tuyên bố bảo lưu nội dung này, có quyền áp dụng quy định mọi
chào hàng, chấp nhận chào hàng, hợp đồng, các sửa đổi/chấm dứt hợp đồng và bất
kỳ sự thể hiện ý chí nào khác phải được lập bằng văn bản nếu một bên có trụ sở
kinh doanh ở nước đó.
Theo Luật Thương mại Việt Nam , mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện
trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc
bằng hình thức có giá trị pháp lý tương đương [11].
Quy định này nhằm tránh những rủi ro và tranh chấp phát sinh từ sự thiếu minh bạch
trong hoạt động thương mại quốc tế, vốn là hoạt động thương mại phức tạp. Do
đó, nếu gia nhập Công ước, Việt Nam
nên thực hiện bảo lưu nội dung về hình thức hợp đồng tại Điều 12 và 96 CISG.
2. Giao kết hợp đồng (Điều 14-24 CISG)
Điều 14 CISG định nghĩa một đề nghị giao kết
hợp đồng hình thành một chào hàng khi nó được gửi đến một/nhiều người xác định,
thể hiện ý chí của người chào hàng muốn ràng buộc mình trong trường hợp chào hàng
được chấp nhận, và nêu rõ hàng hóa, ấn định hoặc quy định cách xác định số lượng
và giá cả. Bộ luật dân sự Việt Nam
quy định đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ
thể [12].
So với CISG, pháp luật Việt Nam không yêu cầu nội dung cụ thể của một đề nghị
giao kết hợp đồng.
Điều 14 CISG cũng phân biệt một chào hàng với
một lời mời đưa ra chào hàng[13].
Theo đó, một đề nghị không gửi cho những người xác định chỉ được coi là một lời
mời đưa ra chào hàng. Nội dung này không
có quy định tương ứng trong pháp luật Việt Nam .
Điều 15 CISG quy định một chào hàng sẽ có hiệu
lực khi nó tới nơi người được chào hàng. Ngoài ra, chào hàng, dù là loại không
thể hủy ngang, có thể bị rút lại nếu thông báo rút lại chào hàng tới nơi người
được chào hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng. Thực chất sự rút lại chào
hàng theo điều này không phải là sự hủy bỏ chào hàng vì chào hàng này chưa có
hiệu lực.
Bộ luật dân sự Việt Nam
ghi nhận thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực là do bên đề nghị ấn định ;
hoặc khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó[14].
Luật cũng liệt kê rõ các trường hợp được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp
đồng[15],
bao gồm : đề nghị được chuyển đến
nơi cư trú/ trụ sở của bên được đề nghị ; đề nghị được đưa vào hệ thống
thông tin chính thức của bên được đề nghị ; bên được đề nghị biết được đề
nghị thông qua các phương thức khác. Quy định này phù hợp với nội dung của
Điều 24 CISG. Về việc rút lại đề nghị, Điều 392 BLDS 2005 có quy định tương tự
CISG, theo đó quy định điều kiện để bên đề nghị thay đổi, rút lại đề nghị
là khi bên được đề nghị nhận được thông
báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được
đề nghị. Tu y nhiên, so với Công
ước, điểm b khoản 1 Điều 392 còn bổ sung
thêm trường hợp bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu: điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát
sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại
đề nghị khi điều kiện đó phát sinh.
Điều 16 CISG quy định về nguyên tắc, một chào hàng có thể bị hủy ngang. Tu y nhiên, điều kiện để hủy bỏ chào hàng là nếu
thông báo về việc hủy bỏ tới nơi người được chào hàng trước khi người này gửi
chấp nhận chào hàng. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 16 CISG quy định hai ngoại lệ
quan trọng trong đó chào hàng không thể bị hủy ngang là :
(i)
Khi đề nghị quy định rõ là không thể bị hủy
ngang, bằng cách quy định rõ một thời hạn
nhất định cho việc chấp nhận.
(ii)
Bên đề nghị có cơ sở hợp lý để tin là đề nghị
không hủy ngang và đã hành động theo chiều hướng đó.
Trong khi đó,
BLDS 2005 có cách tiếp cận ngược lại,
quy định: “Trong trường hợp bên đề nghị
giao kết hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do đã nêu rõ quyền này trong đề
nghị thì phải thông báo cho bên được đề nghị và thông báo này chỉ có hiệu lực
khi bên được đề nghị nhận được thông báo trước khi bên được đề nghị trả lời chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng”[16].
Như vậy theo pháp luật Việt Nam , một
đề nghị về nguyên tắc sẽ không bị hủy
ngang, trừ khi quyền hủy ngang được bên đề nghị quy định trước trong đề nghị.
Mặc dù Điều 393 BLDS 2005 đưa ra thời điểm “bên
được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” làm căn cứ để xác
định hiệu lực của thông báo hủy bỏ đề nghị của bên đề nghị, nhưng lại không nêu
rõ thời điểm nào được coi là bên được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị.
Điều 17 CISG
ghi nhận một quy tắc được chấp nhận phổ biến rằng một chào hàng dù là loại
không thể hủy ngang vẫn có thể chấm dứt hiệu lực khi thông báo từ chối chấp nhận
chào hàng đến nơi người chào hàng. Trong khi đó, Bộ luật dân sự quy định các
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt bao gồm : i) bên nhận được đề nghị trả lời không chấp
nhận ; ii) hết thời hạn trả lời chấp nhận ; iii) khi thông báo về việc
thay đổi hoặc rút lại đề nghị có hiệu lực ; iv) khi thông báo về việc hủy
bỏ đề nghị có hiệu lực ; theo thỏa thuận của hai bên trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời[17].
Điều 18 CISG
định nghĩa một chấp nhận chào hàng là một lời tuyên bố hoặc một hành vi khác của
người được chào hàng thể hiện rõ sự đồng ý với chào hàng. Sự im lặng hoặc không
hành động không mặc nhiên có giá trị là một chấp nhận. Tương ứng, Điều 396 BLDS
2005 nêu rõ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề
nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Khi
bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa
đổi đề nghị thì coi như họ đã đưa ra đề nghị mới[18].
Về thời điểm
để một chấp nhận chào hàng có hiệu lực, CISG căn cứ vào thời điểm chấp nhận
chào hàng tới nơi người chào hàng[19].
Một chấp nhận chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi người chào hàng trong thời hạn
quy định hoặc trong một thời hạn hợp lý (nếu không ấn định thời hạn). Pháp luật
Việt Nam quy định trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn được bên đề
nghị ấn định. Nếu bên đề nghị nhận được trả lời khi đã hết thời hạn đó thì chấp
nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời[20].
Ngoài ra, CISG[21]
và Bộ luật dân sự Việt Nam [22]
đều yêu cầu một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay lập tức, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác.
Điều 19 CISG
ghi nhận trường hợp trả lời chấp nhận chào hàng có kèm theo những nội dung sửa
đổi đề nghị chào hàng ban đầu sẽ cấu thành một chào hàng mới, trừ khi những sửa
đổi không làm biến đổi một cách cơ bản nội dung chào hàng ban đầu. Các yếu tố sửa
đổi liên quan đến các điều kiện giá cả, thanh toán, chất lượng và số lượng hàng
hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các bên, giải quyết
tranh chấp được coi là làm biến đổi một các cơ bản nội dung của chào hàng. Về
phần này, BLDS cũng có quy định tương tự
như đã đề cập ở trên tại Điều 395, tuy nhiên không có quy định chi tiết về các yếu tố sửa đổi làm thay đổi cơ bản
nội dung chào hàng như trong CISG.
Điều 22 CISG
và Điều 400 BLDS có quy định tương tự
nhau về việc chấp nhận chào hàng có thể bị rút lại nếu thông báo rút lại tới
nơi người chào hàng trước hoặc cùng thời điểm chấp nhận chào hàng có hiệu lực.
Về thời điểm
giao kết hợp đồng, CISG quy định hợp đồng được giao kết kể từ thời điểm chấp nhận
chào hàng có hiệu lực[23],
trong khi BLDS cụ thể hóa các trường hợp như : hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời
chấp nhận giao kết ; hoặc nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận
giao kết thì hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà
bên được đề nghị vẫn im lặng ; hoặc thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời
nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng ; hoặc thời
điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Nhìn chung, các quy định này của CISG và BLDS là tương thích với nhau.
3. Mua bán hàng hóa (Điều 25-88)
Giống
như pháp luật quốc gia của đa số các nước khác trên thế giới, pháp luật về hợp
đồng của Việt Nam liên quan đến mua
bán hàng hóa quốc tế kém chi tiết và rõ ràng hơn so các quy định của CISG về một
số nội dung, đặc biệt là về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Điều 25
định nghĩa “sự vi phạm cơ bản” hợp đồng,
phân biệt với vi phạm khác ít nghiêm trọng hơn, là yếu tố căn bản để xác định
biện pháp khắc phục cho các bên. Bất cứ vi phạm nào của một bên cũng cho phép
bên kia có quyền đòi bồi thường thiệt hại, nhưng chỉ có vi phạm cơ bản mới cho
phép một bên được hủy hợp đồng[24],
cho phép người mua từ chối nhận hàng hóa không phù hợp và yêu cầu hàng thay thế[25],
hoặc cho phép người bán từ chối giao hàng. Điều 25 định nghĩa một sự vi phạm hợp
đồng là vi phạm cơ bản nếu nó gây thiệt hại đến mức mà bên bị thiệt hại bị mất
đi lợi ích mà họ có quyền mong đợi từ hợp đồng, trừ khi hậu quả là không dự liệu
được và rõ ràng là không thể dự liệu được bởi bên vi phạm. Trong khi đó, Luật
Thương mại Việt Nam có định nghĩa tương tự Công ước về “vi phạm
cơ bản”[26].
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định bên bị vi phạm không được áp dụng một số chế
tài trong thương mại đối với vi phạm không cơ bản[27].
Việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được
thông báo cho bên kia biết. Yêu cầu này được cả Công ước[28]
và pháp luật Việt Nam [29]
sử dụng nhằm tránh thiệt hại do sự thiếu rõ ràng hay nhầm lẫn trong giao dịch
quốc tế.
Điều 29
Công ước quy định việc sửa đổi hay chấm dứt
hợp đồng phải làm bằng văn bản nếu hợp đồng gốc yêu cầu như vậy, trừ trường
hợp một bên đã có hành vi không phù hợp với yêu cầu của hợp đồng ban đầu và bên
kia đã căn cứ vào hành vi này. BLDS có quy định tương tự, theo đó đối với hợp đồng
bằng văn bản, có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi
hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó[30].
[1] Hoa Kỳ, Trung
Quốc, Singapore
[2] Ngoại lệ
của quy định này là trường hợp một nước yêu cầu hợp đồng mua bán phải có hình
thức văn bản (Điều 12 CISG)
[3] Khoản 1
Điều 4 Luật Thương mại 2005
[4] Điều 5
Luật Thương mại 2005
[5] Khoản 3
Điều 4 Luật Thương mại 2005
[6] Khoản 3
Điều 2 Bộ luật dân sự 2005
[7] Điều 62
Luật Thương mại 2005
[10] Điều 3 BLDS 2005
[12] Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005
[13] Khoản 2 Điều 14 CISG
[14] Khoản 1 Điều 391 BLDS 2005
[15] Khoản 2 Điều 391 BLDS 2005
[17] Điều 394 BLDS 2005
[19] Khoản 2 Điều 18 CISG
[20] Khoản 1
Điều 397 BLDS 2005
[21] Khoản 2
Điều 18 CISG
[22] Khoản 2
Điều 397 BLDS 2005
[23] Điều 23
CISG, Điều 404 BLDS.
[24] Các điều 49(1)(a),
51(2), 64(1)(a), 72(1), 73(1)&(2) CISG
[25] Điều 46(2) CISG
[26] Khoản 13 Điều 3 Luật
Thương mại 2005
[27] Điều 293 Luật Thương mại
2005
[28] Điều 26 CISG
[29] Điều 315 Luật Thương mại
2005
[30] Khoản 2 Điều 423 Bộ Luật
dân sự 2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét