Hệ thống
các vụ kiện liên quan đến Công ước Viên
1. Nhận định chung:
Hệ thống các vụ kiện liên quan đến CISG trên thế giới hiện nay đã được báo
cáo trên 2500 vụ kiện. Tu y nhiên,
con số thực tế có thể lớn hơn rất nhiều, vì nhiều vụ kiện không được báo cáo rộng
rãi. Các vụ kiện của CISG được báo cáo trên 2 nguồn chính sau:
www.uncitral.org (website chính thức của Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của
Liên hợp quốc)
www.cisg.law.pace.edu (website
chuyên về CISG – là hệ thống cơ sở dữ liệu của Đại học Pace, Hoa Kỳ)
Qua nghiên cứu hệ
thống các phán quyết/quyết định liên quan đến Công ước Viên do UNCITRAL xây dựng
có thể đưa ra một số nhận định như sau:
Liên quan đến việc
giải thích và áp dụng Công ước, hiện nay không có một cơ quan tài phán thường
trực chuyên biệt để giải quyết các vụ kiện liên quan đến Công ước. Các tranh chấp
liên quan đến CISG được giải quyết bởi các tòa án quốc gia hoặc các cơ quan trọng
tài. Quyền giải thích, áp dụng Công ước được trao hoàn toàn cho cơ quan tài
phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. UNCITRAL là cơ quan chủ trì soạn thảo
CISG, do đó những giải thích về các quy định của Công ước do cơ quan này đưa ra
được coi là giải thích chính thức và được các cơ quan tài phán tham khảo trong
quá trình áp dụng Công ước.
Về bản chất, các phán quyết và quyết định của Tòa án/ Trọng
tài liên quan đến CISG trong hệ thống UNCITRAL chỉ mang tính chất tham khảo,
không phải là án lệ, không phải là khuôn mẫu và cơ sở có tính chất bắt buộc để
các tòa án/trọng tài khác đưa ra phán quyết cho những vụ việc tương tự sau đó).
Hệ thống các phán
quyết/quyết định liên quan đến CISG được xây dựng dựa trên hệ thống các báo cáo
viên quốc gia (national correspondents) do nước Thành viên của Công ước chỉ định.
Việc chỉ định báo cáo viên này phải được xác nhận lại theo giai đoạn 5 năm một
lần. Các báo cáo viên có trách nhiệm thu thập các quyết định và phán quyết của
tòa án hoặc trọng tài nước mình và chuẩn bị các bản tóm tắt. Ba n Thư ký UNCITRAL sẽ lưu trữ các quyết định và
phán quyết này, và chuyển ngữ các bản tóm tắt nội dung vụ kiện ra 5 ngôn ngữ chính
thức của Công ước.
Theo thống kê của
UNCITRAL, hiện nay có 648 phán quyết
của tòa án/trọng tài các nước liên quan đến CISG được chính thức thông báo lên
UNCITRAL, trong đó bao gồm 308 vụ trong giai đoạn 2000-Q1/2011, 340 vụ trong
giai đoạn từ 1980-1999. Các nước thành viên có số lượng tranh chấp nhiều nhất
là Đức 139 vụ, Thụy Sỹ 95 vụ, Tây Ba n
Nha 59 vụ, Trung Quốc 56 vụ, Pháp 55
vụ, Hoa Kỳ 51 vụ. Các nước Thành
viên châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore chưa có vụ kiện nào được thông
báo lên UNCITRAL.
Đồng thời, theo thống
kê tại trang www.cisg.law.pace.edu (website chuyên về
CISG – là hệ thống cơ sở dữ liệu của Đại học Pace, Hoa
Kỳ), hệ thống các vụ kiện liên quan đến CISG hiện nay bao gồm 2726 vụ. Trong giai đoạn từ năm 2000-2010, những nước có số vụ kiện
cao nhất bao gồm Trung Quốc 196 phán
quyết, Đức 176 phán quyết, Nga 157 phán quyết và Mỹ 109 phán quyết trong 99 vụ,
Thụy Sỹ với 84 phán quyết. Đối với các nước châu Á, trong 10 năm qua, ngoài Trung Quốc thì chỉ có Singapore với 1 vụ kiện và Nhật
Bản với 1 vụ được ghi nhận trong hệ thống. Hàn Quốc là thành viên của Công ước
vẫn chưa có báo cáo vụ kiện trong hệ thống này. Việt Nam
tuy chưa phải là thành viên Công ước nhưng đã có 2 vụ kiện được ghi nhận trong
hệ thống.
Một vấn đề cần lưu ý là việc báo cáo các vụ kiện về CISG
không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với các nước Thành viên Công ước, do đó
trên thực tế số lượng tranh chấp là rất nhiều nhưng chưa được các nước báo cáo
chính thức đến Ba n Thư ký UNCITRAL.
2. Hàng
hóa thường xảy ra tranh chấp:
Nhìn chung, các vụ kiện CISG liên quan đến rất nhiều mặt
hàng xuất nhập khẩu, từ hàng công nghiệp đến nông nghiệp, hàng phục vụ sản xuất
như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hóa chất cho đến hàng tiêu dùng như thực
phẩm, nội thất, điện tử, may mặc…
Theo UNCITRAL, trong tổng số 139 vụ kiện được xét xử bởi
các cơ quan tài phán Đức, có 31 vụ liên quan đến các sản phẩm dệt may và da
giày, 24 vụ liên quan đến hàng nông sản và thực phẩm, 20 vụ về vật liệu xây dựng
và đồ nội thất, 14 vụ về máy móc-thiết bị- phương tiện vận tải, 9 vụ liên quan
đến thiết bị-linh kiện điện tử… Đối với Trung
Quốc, đa số các vụ kiện liên quan đến mặt hàng sắt thép và kim loại (14 vụ),
hàng nông sản và thực phẩm (7 vụ), hóa chất (8 vụ), máy móc thiết bị (7 vụ)…
trong tổng số 56 vụ. Trường hợp của Pháp, phần lớn các vụ tranh chấp liên quan
đến thiết bị-linh kiện-máy móc (13 vụ), hàng nông sản và thực phẩm (8 vụ), vật
liệu xây dựng (5 vụ)… trong tổng số 55 vụ. Đối với Hoa
Kỳ, tranh chấp chủ yếu liên quan đến sản phẩm phần mềm, máy tính, điện tử, máy
móc – thiết bị, sản phẩm nông nghiệp (xuất khẩu), dệt may, hóa chất, nguyên vật
liệu (nhập khẩu)… Đối với Thụy Sỹ, phần lớn tranh chấp liên quan đến máy móc,
thiết bị, vật liệu xây dựng (xuất khẩu), hàng dệt may (nhập khẩu)…
Như vậy, có thể thấy rằng các mặt hàng thường hay xảy ra
tranh chấp thường là mặt hàng thế mạnh xuất khẩu của các nước thành viên hoặc mặt
hàng nhập khẩu chủ yếu của những nước này.
3. Các vấn đề thường xảy ra tranh
chấp và hướng giải quyết của các cơ quan tài phán:
Thông
qua nghiên cứu hệ thống các vụ kiện liên quan đến Công ước Viên 1980 của
UNCITRAL có thể thấy rằng các vụ tranh chấp thường liên quan đến các vấn đề chính
sau:
a. Tính toán thiệt hại và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
- Điều 74 (147 vụ):
Trong hầu hết các vụ kiện, đòi bồi thường thiệt hại là mục đích chính của
bên bị vi phạm khi khởi kiện nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này lí giải
cho thực tế rằng trong đa số các vụ kiện CISG, Điều 74 thường được áp dụng. Việc
áp dụng các quy định của Điều 74 chủ yếu liên quan đến các khía cạnh sau:
- Phạm vi bồi thường: nếu hàng
hóa giao không phù hợp với yêu cầu của hợp đồng thì phạm vi bồi thường thiệt hại
được tính với số hàng hóa không phù hợp đó hay toàn bộ lô hàng[1]?
- Loại thiệt hại: trượt giá đồng
tiền thanh toán trong trường hợp chậm thanh toán có được coi là thiệt hại và được
bồi thường không[2];
- Tính có thể dự liệu trước: loại
thiệt hại nào mà bên vi phạm có thể dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được tại
thời điểm ký kết hợp đồng? Có một số thiệt hại mà bên vi phạm không thể dự liệu
trước như: chi phí gia công hàng hóa ở một nước khác do chậm giao hàng[3]; lợi nhuận bị mất từ hợp đồng của bên mua với bên mua lại
hàng hóa[4] mà bên bán là bên vi phạm không biết; chi phí kiểm tra
hàng hóa ở nước nhập khẩu mà không phải ở nước xuất khẩu[5]… Bên cạnh đó, một số thiệt hại là rõ ràng có thể dự liệu
được như: bên mua là doanh nghiệp bán lẻ thì bên bán phải dự liệu được hàng hóa
sẽ được bán lại[6]; bên mua không thanh toán trước tiền hàng theo thỏa thuận
được coi là phải dự liệu trước được bên bán hàng hóa có thể thay thế sẽ bị mất
khoản lợi nhuận chính đáng của mình[7]; 10% giá hàng hóa được bồi thường cho bên bán vì đã sản
xuất hàng theo đơn đặt hàng riêng của bên mua trong trường hợp bên bán không chứng
minh được khoản thiệt hại mà mình phải gánh chịu[8]; bên mua phải dự liệu được việc không mở L/C theo yêu cầu
của hợp đồng sẽ khiến bên bán tự động ngừng sử dụng tàu đã được đặt trước để vận
chuyển hàng hóa, khi đó thiệt hại mà bên bán phải chịu trong hợp đồng thuê tàu
sẽ được bồi thường[9]...
- Khoản lợi bị bỏ lỡ: các bên
tranh chấp về khoản chênh lệch giữa giá hàng hóa theo hợp đồng và giá bán trên
thị trường có được coi là khoản lợi bị bỏ lỡ hay không[10].
b. Tiền lãi đối với
số tiền chậm trả - Điều 78 (122 vụ):
Điều 78 trao quyền cho một bên được đòi tiền lãi đối với “giá bán hay bất cứ
khoản tiền nào chậm trả”.
- Điều kiện để được hưởng lãi: để
được hưởng lãi thì khoản tiền mà lãi sẽ được tính trên đó phải đến hạn và bên nợ
không thực hiện được nghĩa vụ trả tiền trước thời điểm được xác định trong hợp
đồng[11], hoặc trong Công ước trong trường hợp hợp đồng không nhắc
đến thời điểm đó.[12] Việc được hưởng lãi theo Điều 78 không phụ thuộc vào việc
bên chủ nợ có chứng minh được rằng bên này phải chịu thiệt hay không. Do đó, tiền
lãi được đòi hỏi độc lập với thiệt hại do việc chậm trả gây ra[13].
- Lãi suất: một vài tòa án đã chỉ
ra rằng Điều 78 chỉ đưa ra việc được hưởng lãi suất một cách chung chung mà
không cụ thể mức lãi suất được áp dụng.[14] Việc thiếu một công thức cụ thể cho việc tính toán lãi
suất đã dẫn đến việc một vài tòa án xem vấn đề này được điều chỉnh bởi Công ước
nhưng không được giải quyết rõ ràng bởi Công ước[15], trong khi đa số các tòa án coi vấn đề lãi suất là vấn đề
nằm ngoài phạm vi của Công ước và do vậy xử lý theo luật nội địa,[16] ví dụ một Tòa đã phán quyết bên thua kiện phải trả 10%
lãi suất tiền hàng theo quy định của luật quốc gia được chọn áp dụng[17]. Đối với vấn đề được điều chỉnh nhưng không được thể hiện
rõ ràng trong Công ước thì theo Điều 7(2), vấn đề đó phải được xử lý phù hợp với
các nguyên tắc chung mà Công ước lấy làm cơ sở, chỉ trong trường hợp thiếu vắng
các nguyên tắc này thì mới áp dụng luật do các quy tắc của luật tư pháp quốc tế
xác định. Hầu hết tòa án xem vấn đề lãi suất không thuộc phạm vi của Công ước sẽ
áp dụng nội luật của một nước cụ thể, được xác định bằng việc sử dụng các quy tắc
của tư pháp quốc tế[18], số khác sẽ áp dụng nội luật của bên chủ nợ mà không có
chỉ dẫn nào xem liệu đó có phải là luật được áp dụng bởi các quy tắc của tư
pháp quốc tế.[19]
c. Thời hạn thông
báo về sự không phù hợp của hàng hóa (Điều 39) 85 vụ
Theo Điều 39, bên mua đã khiếu nại rằng hàng hóa đã được giao không phù hợp
với hợp đồng có nghĩa vụ thông báo cho bên bán về sự không phù hợp đó.
- Phạm vi của Điều
39: đa phần các quyết định áp dụng yêu cầu thông báo tại Điều
39 đều liên quan đến khiếu nại rằng hàng hóa bị khiếm khuyết hoặc không phù hợp
theo Điều 35. Tu y nhiên, nghĩa vụ
thông báo theo Điều 39 được áp dụng không chỉ đối với các vi phạm nghĩa vụ đảm
bảo chất lượng mà còn với các vi phạm quy định bảo hành trong hợp đồng theo Điều
35.[20]
Một vài quyết định đưa ra yêu cầu về nghĩa vụ thông báo khi bên mua khiếu nại
rằng hàng hóa được chuyển giao không đảm bảo về số lượng.
- Thời hạn hợp lý: Trong một vài
vụ kiện, các bên tranh cãi nhau về việc
thời hạn bao lâu được coi là thời
hạn hợp lý để thông báo sự không phù hợp của hàng hóa[21]. Một Tòa án thấy rằng bên mua đã thông báo về sự không
phù hợp của hàng hóa sau 2 tháng kể từ ngày hàng được giao, trong khi bên này
hoàn toàn có thể dễ dàng phát hiện ra khiếm khuyết của hàng hóa và thông báo
cho bên bán trong vòng vài ngày sau khi nhận hàng. Như vậy, bên mua được coi là
không thông báo trong thời hạn hợp lý.
- Nội dung thông báo: trong một vụ
kiện khác, bên mua đã thông báo cho bên bán về sự không phù hợp của hàng hóa là
kẹo mềm với nội dung “kẹo được giao quá mềm”[22]. Tu y nhiên,
Tòa án cho rằng thông báo này mang tính chung chung, không chỉ rõ được tính thiếu
phù hợp của hàng hóa theo Điều 39.
- Giới hạn thời gian thông báo:
nhiều tranh chấp liên quan đến thời hạn 2 năm theo quy định của Điều 39(2) theo
đó trong mọi trường hợp bên mua phải thông báo cho bên bán về sự thiếu phù hợp
của hàng hóa trong thời hạn này[23]. Ví dụ, bên mua khởi kiện khi phát hiện ra hàng hóa (đá
lát nền) bị hư hỏng do sương giá sau 6 năm kể ngày mua, mặc dù hàng đã được bảo
đảm chịu được sương giá. Tòa kết luận rằng người mua đã mất quyền kiện hàng hóa
không phù hợp do đã không thông báo cho người mua chậm nhất trong vòng 2 năm kể
từ ngày giao hàng. Ngoài ra, nhiều Tòa cũng nhầm lẫn thời hạn 2 năm cho việc
thông báo theo Điều 39(2) với thời hiệu khởi kiện[24].
- Hậu quả của việc
không thông báo: cả Điều 39 (1) và Điều 39 (2)
đều nêu lên rằng việc không thông báo sẽ khiến bên mua mất quyền khiếu nại về sự
không phù hợp của hợp đồng[25]. Điều này có nghĩa là bên mua sẽ mất quyền được hưởng
các bất kỳ các biện pháp khắc phục nào để sửa chữa sự không phù hợp như quyền
yêu cầu bên bán sửa chữa hàng hóa[26], quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại[27], quyền được giảm giá[28], và quyền không thực hiện hợp đồng[29].
- Nghĩa vụ chứng minh: đa phần các quyết định đưa ra đều yêu cầu bên bán phải chứng minh rằng họ
đã đưa ra thông báo về sự không phù hợp. Các quyết định này đều dựa vào các
nguyên tắc chung của CISG để làm cơ sở cho yêu cầu nghĩa vụ chứng minh đối với
bên bán.[30]
- Hình thức thông báo: Điều 39 không nêu cụ thể hình thức thông báo được yêu cầu, mặc dù các bên
có thể yêu cầu một hình thức cụ thể thông qua thỏa thuận. Thông báo dưới hình
thức văn bản thường được chấp nhận và nội dung của các thư từ trao qua đổi lại
sẽ được xem là thỏa mãn yêu cầu của Điều 39.[31] Thông báo qua điện thoại cũng được xem là đầy đủ với điều
kiện là bên bán phải đưa ra được các bằng chứng về ngày cuộc gọi, bên mà bên
bán nói chuyện, hoặc thông tin được đưa ra về sự không phù hợp của hàng hóa.[32]
- Bên được thông báo: Điều 39 nêu
rằng thông báo về sự không phù hợp phải được đưa ra cho bên bán.[33] Do vậy, những trao đổi giữa bên mua với khách hàng của
bên mua về sự không phù hợp của hàng hóa không thỏa mãn yêu cầu thông báo theo
Điều 39 bởi vì những trao đổi đó không có sự tham gia của bên bán.[34] Bên cạnh đó, thông báo tới đại lý của bên bán cũng có thể
được xem là thỏa mãn Điều 39. Trong một vụ khác, các bên tranh chấp về việc người
mua thông báo sự không phù hợp của hàng hóa đến người làm thuê của người bán có
được coi là hợp lệ hay không[35]? Phán quyết của Tòa chỉ ra rằng người mua đã không gửi
thông báo đến người phù hợp (là người bán), cũng không chứng minh được việc người
nhận thông báo đã thông báo lại cho người bán, do vậy thông báo bị coi là không
hợp lệ.
- Các thỏa thuận liên quan đến thông
báo: Điều 39 chịu ảnh hưởng của quyền của các bên theo Điều 6 để từ bỏ hay
thay đổi hiệu lực của bất cứ điều khoản nào của Công ước. Một số quyết định đã
nhắc đến các thỏa thuận giữa các bên liên quan đến nghĩa vụ của bên mua ra
thông báo cho bên bán khiếu nại của mình về việc hàng hóa không phù hợp với yêu
cầu của hợp đồng.[36] Những thỏa thuận này thường được thực thi và bên mua đôi
lúc mất quyền khiếu nại về sự không phù hợp bởi vì họ không tuân thủ các điều
khoản của thỏa thuận đó.[37] Các bên cũng không được xem là đã từ bỏ Điều 39 chỉ bằng
việc đồng ý với bảo hành 18 tháng theo hợp đồng[38] hoặc là một hợp đồng bảo hành mà không xử lý rõ vấn đề
nghĩa vụ của bên mua thông báo về sự không phù hợp của hàng hóa[39].
d. Vi phạm cơ bản
nghĩa vụ hợp đồng (Điều 25) 78 vụ
Nhìn chung, Điều 25 xác định ranh giới giữa các tình huống dẫn đến các biện
pháp khắc phục thông thường khi vi phạm hợp đồng – như bồi thường thiệt hại và
giảm giá – và những vi phạm đòi hỏi phải có biện pháp khắc phục mạnh hơn như là
vô hiệu hợp đồng.
- Vi phạm cơ bản: Vi phạm được
coi là cơ bản nếu vi phạm đó thủ tiêu hay làm giảm đáng kể các mong đợi hợp lý
trên cơ sở hợp đồng của người bị thiệt hại. Các mong đợi nào được coi là hợp lý
phụ thuộc vào từng hợp đồng cụ thể, thực tiễn thương mại và các điều khoản của
Công ước. Ví dụ, bên mua thông thường không thể mong đợi rằng hàng hóa được
giao phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn chính thức tại nước của bên đó.[40]
- Các tình huống vi phạm cơ bản:
việc không thể thực hiện một nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng tạo nên một vi phạm
cơ bản hợp đồng trừ phi bên vi phạm có lý do chính đáng để hành động như vậy,
ví dụ như trong trường hợp không giao hàng[41] hoặc không thanh toán lần cuối[42]. Tu y nhiên,
việc giao hàng chậm hay thanh toán chậm không tạo nên một vi phạm cơ bản của hợp
đồng[43].
+ Trong trường hợp nào việc giao hàng không phù hợp theo yêu cầu của hợp đồng
được coi là vi phạm cơ bản? Một số tòa quyết định rằng sự không phù hợp liên
quan đến chất lượng hàng hóa không được coi là vi phạm cơ bản nếu bên mua có thể
sử dụng hàng hóa hoặc bán lại hàng hóa với giá giảm[44]. Mặt khác, nếu hàng hóa không phù hợp không thể được
dùng hay bán lại thì đó là vi phạm cơ bản và bên mua có quyền tuyên bố hợp đồng
vô hiệu[45]. Vi phạm cũng được xem là cơ bản nếu hàng hóa được giao
có khiếm khuyết nghiêm trọng và không thể sửa chữa mặc dù chúng vẫn có thể sử dụng
được ở một mức độ nào đó[46].
Việc vi phạm các nghĩa vụ hợp đồng khác cũng có thể là vi phạm cơ bản. Tu y nhiên, vi phạm đó phải tước bỏ của bên bị vi phạm
lợi ích chính của hợp đồng và hệ quả này có thể lường trước được bởi bên vi phạm.
Tổng cộng của nhiều vi phạm hợp đồng tạo ra nhiều khả năng hơn để một vi phạm
cơ bản có thể xảy ra, nhưng tự chúng không tạo nên một vi phạm cơ bản[47].
- Nghĩa vụ chứng minh: các bên
cũng tranh chấp về nghĩa vụ chứng minh liên quan đến vi phạm cơ bản. Nghĩa vụ
chứng minh liên quan đến khả năng lường trước được thiệt hại thuộc về bên vi phạm[48]. Bên vi phạm phải chứng minh rằng bên này không thể lường
trước được các tác động thiệt hại đáng kể của vi phạm, và rằng một người có lý
trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.
Trong khi đó, bên bị thiệt hại phải chứng minh được rằng vi phạm đã làm mất đi
đáng kể lợi ích mà bên này có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng[49].
đ. Nghĩa vụ thanh
toán tiền và nhận hàng của người mua (Điều 53) 77 vụ
Quy định của Điều 53 cho thấy rằng trường hợp hợp đồng quy định việc thanh
toán và nhận hàng khác với quy định của Công ước thì thỏa thuận của các bên sẽ
được áp dụng.
Theo Công ước, hợp đồng có thể áp đặt nhiều nghĩa vụ đối với bên mua ngoài
nghĩa vụ thanh toán và giao nhận[50], như nghĩa vụ cung cấp các nguyên vật liệu cần thiết để
sản xuất hàng hóa, hay nghĩa vụ nộp các mô tả kỹ thuật liên quan đến hình thức,
kích thước hoặc các đặc điểm khác của hàng hóa.
Rất nhiều quyết định của tòa án dẫn chiếu Điều 53 liên quan đến các phán
quyết yêu cầu bên mua phải thanh toán tiền hàng[51].
e. Xác định sự phù
hợp của hàng hóa theo hợp đồng (Điều 35) 69 vụ
- Nghĩa vụ chứng minh: bên nào chịu
nghĩa vụ chứng minh rằng hàng hóa không phù hợp theo yêu cầu của hợp đồng theo
Điều 35? Có tòa cho rằng bên bán phải thực hiện nghĩa vụ này, trong khi có tòa
lại cho rằng nghĩa vụ này thuộc về bên mua. Một số tòa kết luận rằng, bản thân
Công ước, mặc dù không có câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này, đã nêu ra một
nguyên tắc chung rằng bên nào khẳng định một sự việc thì có nghĩa vụ chứng minh
điều đó, điều này dẫn đến việc đưa nghĩa vụ chứng minh cho bên mua vì bên này
đã khẳng định rằng hàng hóa không phù hợp theo yêu cầu của hợp đồng[52]. Một vài tòa lại cho rằng nghĩa vụ chứng minh phụ thuộc
vào hoàn cảnh. Ví dụ, bên mua chịu trách nhiệm chứng minh sự không phù hợp của
hàng hóa nếu bên này nhận hàng mà không thông báo ngay lập tức cho bên bán về sự
không phù hợp[53]. Tương tự, bên bán chịu trách nhiệm chứng minh hàng hóa
phù hợp theo yêu cầu của hợp đồng tại thời điểm rủi ro được chuyển giao, tuy
nhiên bên mua lại chịu trách nhiệm chứng minh sự không phù hợp sau khi rủi ro
được chuyển nếu bên mua chấp nhận hàng hóa mà không thông báo ngay lập tức cho
bên bán về những khiếm khuyết đó[54].
g. Kiểm tra hàng
hóa (Điều 38) 61 vụ
Điều 38 yêu cầu bên mua phải kiểm tra hàng hóa đã được
giao nhận. Phần lớn nội dung Điều 38 tập trung vào thời điểm mà việc kiểm tra
nên xảy ra. Tu y nhiên, Điều 38 không
chỉ rõ loại hình hay phương thức kiểm tra, và vấn đề này đã thu hút nhiều bình
luận hay giải thích khác nhau trong nhiều vụ việc.
- Phương thức kiểm
tra: Điều 38 ám chỉ rằng bên mua có thể tự mình kiểm tra hàng hóa hoặc nhờ
cá nhân hay tổ chức khác kiểm tra như khách hàng của bên mua, nhà thầu phụ hoặc
một chuyên gia do bên mua chỉ định. Tu y
nhiên, bên mua phải chịu trách nhiệm cuối cùng đối với việc kiểm tra do các bên
khác thực hiện.[55]
Phương thức kiểm tra sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các
bên hay thực tiễn thương mại.[56] Trong trường hợp thiếu các yếu tố đó cần có sự kiểm tra
một cách toàn diện, hợp lý và chuyên nghiệp. Mức độ và cường độ kiểm tra sẽ được
xác định bởi loại hàng hóa, việc đóng gói và năng lực của bên mua.[57] Các vấn đề gây tranh cãi liên quan đến phương thức hay
cách thức kiểm tra bao gồm: tác động của trình độ chuyên môn của bên mua đối với
mức độ kiểm tra,[58] liệu kiểm tra mang tính thử nghiệm hay lấy mẫu có đầy đủ[59], tác động của việc đóng gói hàng hóa và điều kiện vận
chuyển hàng hóa lên loại hình kiểm tra mà bên mua nên tiến hành[60], hay liệu việc một chuyên gia bên ngoài là có thể được
hay bắt buộc[61]?
- Thời điểm kiểm
tra: thời điểm kiểm tra của bên mua bắt đầu khi hàng hóa được giao nhận[62], tương ứng với thời điểm rủi ro mất mát được chuyển sang
cho bên bán.[63] Tu y nhiên,
yêu cầu về thời điểm kiểm tra theo Điều 38 (1) mang tính linh hoạt, và thời điểm
kiểm tra sẽ khác nhau tùy theo từng vụ việc cụ thể.[64] Các nhân tố ảnh hưởng đến thời điểm kiểm tra bao gồm: bản
chất dễ hư hỏng của hàng hóa[65], trình độ chuyên môn của bên mua[66], tính phức tạp của hàng hóa[67], sự khó khăn khi tiến hành kiểm tra[68] hay tính hiển nhiên của việc không phù hợp[69]. Thời điểm kiểm tra được xác định trong một số vụ việc
có thể là một tuần sau khi hàng hóa được giao nhận, có thể là 2 tuần, hoặc 3-4
ngày đến một tháng, hoặc ngay vào ngày mà hàng hóa được giao.
Tóm lại, nhận định chung về hướng giải quyết tranh
chấp hợp đồng của các Tòa án và Trọng tài như sau:
- Các quy định của Công ước Viên được giải thích và áp dụng
độc lập theo quan điểm và cách hiểu của các tòa án và trọng tài, không bị ràng
buộc bởi một cơ quan giám sát nào của Công ước. Tu y
nhiên, các lập luận và quyết định của các tòa án/trọng tài thể hiện sự am hiểu
sâu và nắm vững các quy định của CISG cũng như các tập quán thương mại quốc tế
và quy tắc tư pháp quốc tế của các thẩm phán/trọng tài viên. Ngược lại, cũng có
một số vụ kiện cho thấy người ra phán quyết đã hiểu nhầm và áp dụng sai các quy
định của Công ước. Những sai sót này được tổng kết và bình luận trong hệ thống
tóm tắt các vụ kiện của UNCITRAL.
- Trong một vụ kiện, các vấn đề được giải quyết thông qua
việc kết hợp xem xét nhiều điều khoản của Công ước. Phần lớn các vụ kiện có nội
dung tranh chấp liên quan đến nhiều vấn đề pháp lý được Công ước điều chỉnh chứ
không phải chỉ một vấn đề riêng lẻ (ví dụ: khiếu nại hàng hóa giao không phù hợp
và đòi bồi thường thiệt hại; khiếu nại việc chậm thanh toán và yêu cầu hủy hợp
đồng; khiếu nại việc không thực hiện nghĩa vụ thông báo và yêu cầu hủy hợp đồng;
đòi bồi thường thiệt hại và giao hàng hóa thay thế…). Điều này cho thấy sự phức
tạp trong các tranh chấp về giao dịch thương mại quốc tế qua hợp đồng.
- Đối với một số vấn đề chưa được Công ước điều chỉnh
(như đồng tiền thanh toán, giá trị bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa, thời hiệu
khởi kiện…), tòa án/trọng tài sẽ căn cứ vào các nguyên tắc chung của luật
quốc tế cũng như các quy định trong các công ước quốc tế khác, tập quán quốc tế
và trong nhiều trường hợp là luật quốc gia có liên quan để giải quyết (như
Incoterms, Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử, Quy tắc thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ UCP, các quy tắc của luật tư pháp quốc tế, luật quốc
gia…).
[1] Vụ
kiện số 984, Trung Quốc.
[2] Vụ
kiện số 130, Oberlandesgericht Düsseldorf, Đức, 14/1/1994 (seller did not
establish its loss from devaluation of currency in which price was to be paid);
Vụ kiện số 214, Ha ndelsgericht des
Kantons Zürich, Thụy Sỹ, 5/2/1997.
[3] case
No. 294 [Oberlandesgericht Ba mberg ,
Germany , 13 January 1999]
(breaching party could not foresee that late delivery would require processing
in Germany rather than Tu rkey ).
[4] Vụ
kiện số 476, Trọng tài thương mại quốc tế thuộc Trọng tài thương mại và Công
nghiệp Liên bang Nga, 6/6/2000.
[5] Vụ
kiện số 474, Trọng tài thương mại quốc tế thuộc Trọng tài thương mại và Công
nghiệp Liên bang Nga, 24 January 2000 (người bán không thể dự liệu trước việc
kiểm tra hàng hóa ở nước ngoài được viện dẫn để yêu cầu bồi thường thiệt hại đối
với thương hiệu của hàng hóa).
[6] Vụ kiện số 168, Oberlandesgericht Köln, Đức,
21/3/1996.
[7] Vụ kiện số 427, Oberster Gerichtshof, Áo,
28/4/2000.
[8] Vụ
kiện số 217, Ha ndelsgericht
des Kantons Aargau, Thụy Sỹ, 26/9/1997.
[9] Vụ kiện số 631, Tòa án Tối cao bang Queensland , Australia , 17/11/2000.
[10] Trung
Quốc, Vụ kiện số 679.
[11] Vụ kiện số 254, Thụy Sỹ, ngày 19/12/1997
[12] Vụ kiện số 79, Đức, ngày 18/1/1994
[13] Vụ kiện số 79, Đức, ngày 18/1/1994
[14] Vụ kiện số 634, Đức, ngày 21/3/2003
[15] Vụ kiện số 301 (Trọng tài – Tòa Thương mại
quốc tế số 7585 1992), 1995
[16] Vụ kiện số 56, Thụy Sỹ, ngày 27/4/1992
[17] Vụ kiện số 79, Đức, ngày 18/1/1994
[18] Vụ kiện số 432, Đức, ngày 12/10/2000; Vụ
kiện số 630, Tòa trọng tài của Phòng Thương mại quốc tế, Thụy Sỹ, 7/1999
[19] Một vài quyết định của tòa án đã nhắc đến
nội luật của bên chủ nợ như luật áp dụng, không phụ thuộc vào việc liệu các quy
tắc của tư pháp quốc tế có chỉ định luật đó hay không (Vụ kiện số 6, Đức,
16/9/1991; Vụ kiện số 4, Đức, 31/8/1991)
[20] Vụ kiện số 237, Viện Trọng tài của Phòng
Thương mại Stockholm ,
5/6/1998
[21] Vụ
kiện số 81, Đức, ngày 10/2/1994; Case
989, Trung Quốc, ngày 5/4/1999
[22] Vụ
kiện số 411, Đức, ngày 24/1/1996
[23] Vụ
kiện số 1026, Pháp, ngày 8/4/2009
[24] Vụ
kiện số 1027, Pháp, ngày 3 /2/ 2009
[25] Vụ
kiện số 359, Đức, ngày 18 /11/ 1999
[26] Vụ kiện số 196, Thụy Sỹ, ngày 26/4/1995
[27] Vụ kiện số 50, Đức, 14/8/1991
[28] Vụ kiện số 232, Đức, 11/3/1998; Vụ kiện số
46, Đức, ngày 3/4/1990
[29] Vụ kiện số 232, Đức, 11/3/1998; Vụ kiện số
282, Đức, ngày 31/1/1997
[30] Vụ kiện số 378, Ý, 12/7/2000; Vụ kiện số
251, Thụy Sỹ, ngày 30/11/1998
[32] Vụ kiện số 4, Đức, 31/8/1989
[33] Điều 39 (1) yêu cầu bên mua thông báo cho
“bên bán”, và Điều 39 (2) yêu cầu bên bán phải “thông báo cho bên bán”
[34] Vụ kiện số 220, Thụy Sỹ, 3/12/1997
[35] Vụ kiện số 411, Đức, ngày 24/1/1996
[36] Vụ kiện số 541, Áo, 14/1/2002 (điều khoản
yêu cầu bên mua gửi thông báo khiếu nại về sự không phù hợp trong vòng 8 ngày kể
từ ngày nhận được hàng hóa)
[37] Vụ kiện số 336, Thụy Sỹ, 8/6/1999; Vụ kiện
số 50, Đức, 14/8/1991
[38] Vụ kiện số 237, Viện Trọng tài của Phòng
Thương mại Stockholm ,
5/6/1998
[39] Vụ kiện số 542, Áo, 17/4/2002
[40] Vụ kiện số 123, Đức, 8/3/1995
[41] Vụ kiện số 90, Ý, 24/11/1989
[42] Vụ kiện số 130, Đức, 14/1/1994
[43] Vụ kiện số 275, Đức, 24/4/1997
[44] Vụ kiện số 171, Đức, 3/4/1996
[45] Vụ kiện số 150, Pháp, 23/1/1996
[46] Vụ kiện số 107, Áo, 1/7/1994
[47] Vụ kiện số 171, Đức, 3/4/1996
[48] Vụ kiện số 171, Đức, 3/4/1996
[49] Vụ kiện số 171, Đức, 3/4/1996
[50] Vụ kiện số 480, Pháp, 12/6/2001
[51] Xem Điều 61 (1) và 62
[52] Vụ kiện số 378, Ý, 12/7/2000
[53] Vụ kiện số 123, Đức, 8/3/1995
[54] Vụ kiện số 251, Thụy Sỹ, 30/11/1998
[55] Vụ kiện số 167, Đức, 8/2/1995
[56] Vụ kiện số 423, Áo, 27/8/1999
[57] Vụ kiện số 230, Đức, 25/6/1997; Vụ kiện số
270, Đức, 25/11/1998
[58] Vụ kiện số 232, Đức, 11/3/1998
[59] Vụ kiện số 170, Đức, 12/10/1995
[60] Vụ kiện số 98, Hà Lan, 19/12/1991
[61] Vụ kiện số 319, Đức, 3/11/1999; Vụ kiện số
423, Áo, 27/8/1999
[62] Vụ kiện số 634, Đức, 21/3/2003; Vụ kiện số
541, Áo, 14/1/2002
[63] Điều 69 Công ước
[64] Vụ kiện số 541, Áo, 14/1/2002
[65] Vụ kiện số 290, Đức, 3/6/1998; Vụ kiện số
98, Hà Lan, 19/12/1991
[66] Vụ kiện số 56, Thụy Sỹ, 27/4/1992;
[67] Landgericht Duseldorf, Đức, 23/6/1994
[68] Vụ kiện số 315, Pháp, 26/5/1999
[69] Vụ kiện số 359, Đức, 18/11/1999; Vụ kiện số
284, Đức, 21/8/1997
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét