Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

 Pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN.Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa là yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động quản lý hành chính nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật của nhà nước.Các biện pháp pháp lý để đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước rất đa dạng bao gồm hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước,hoạt động kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước,hoạt động xét xử của tòa án nhân dân,hoạt động thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân,hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội,hoạt động khiếu nại tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo.Trong đó khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo là hình thức đặc biệt quan trọng để nhân dân lao động tham gia vào quản lý nhà nước và quản lí xã hội,là một biện pháp quan trọng và thiết thực nhằm đảm bảo pháp chế XHCN. Để làm rõ điều này em xin lựa chọn phân tích đề bài: “Phân tích vai trò của khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”.

I.    Khái quát chung về khiếu nại,tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
1/  Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
 Trước hết, xét về khái niệm khiếu nại: theo quy định của Luật khiếu nại 2011 tại Khoản 1, Điều 2: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.”
Đối tượng của khiếu nại là quyết định hành  chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức của cơ  quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bị người khiếu nại cho là trái pháp  luật, xâm phạm đến quyền và  lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại.
Bên cạnh khái niệm mà luật quy định còn có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khiếu nại, vì khiếu nại là một hiện tượng xã hội phản ánh ý chí phản đối của chủ thể khiếu nại đối với các hành vi của chủ thể bị khiếu nại. Khiếu nại nó cũng là một quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác ghi nhận, do vậy việc sử dụng quyền cơ bản đó để bảo vệ lợi ích của mình là phù hợp với xu thế khách quan và là tất yếu, đây cũng chính là cơ sở để đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
Tại khoản 11, Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 quy định: “Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại.:”.Hoạt động giải quyết khiếu nại là bước tiếp theo khi có yêu cầu giải quyết(khi có khiếu nại), hoạt động này gồm có ba giai đoạn: xác minh tình tiết, nội dung vụ việc khiếu nại; kết luận về tính đúng sai, cơ sở pháp lý của nội dung khiếu nại, của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; ra quyết định giải quyết khiếu nại. Giải quyết khiếu nại của các CQHCNN là các cơ quan này tiến hành các hoạt động thuộc thẩm quyền của mình để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và lợi ích chung của nhà nước và xã hội.
2/ Tố cáo và giải quyết tố cáo.
 Theo quy định trong Luật Tố Cáo 2011 tại Khoản 1, Điều 2  : “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.”  Khái niệm tố cáo này khi chiếu vào thực tế đời sống ta thấy nó được sử dụng rộng rãi, cũng như khái niệm khiếu nại thì khái niệm tố cáo được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào những ngành riêng biệt liên quan đến việc xem xét vấn đề này.
Đối tượng của tố cáo là hành vi vi phạm pháp  luật của bất cứ cơ quan, tổ  chức, cá  nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ  quan, tổ chức; có nghĩa là hành vi trái pháp luật là đối tượng của tố cáo có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tố cáo hoặc có thể không.
Cũng theo quy định của Luật Tố Cáo 2011, khái niệm giải quyết tố cáo được quy định rõ tại khoản 7, Điều 2: “Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.”. Theo đó hoạt động giải quyết tố cáo cũng bao gồm ba giai đoạn. Tuy nhiên, việc giải quyết tố cáo có nhiều điểm khác biệt và phức tạp hơn so với giải quyết khiếu nại ở chỗ: giải quyết tố cáo có liên quan đến quyền lợi của nhiều chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật: lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của công dân... điều này đòi hỏi khi giải quyết tố cáo, cơ quan có thẩm quyền phải xem xét thật kỹ.
3/ Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
“Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà cần chứa đựng các nội dung chính trị, xã hội và con người. Vì vậy đảm bảo cho pháp chế được củng cố tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong xã hội, đặc biệt là trong quản lý hành chính nhà nước. Sở dĩ như vậy, vì pháp chế bao giờ cũng lấy pháp luật làm cơ sở. Pháp luật luôn là phương tiện là cơ sở để xây dựng nhà nước, xây dựng con người- chủ thể quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Bảo đảm pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện phương pháp và cách thức nhằm làm cho pháp luật thực hiện có hiệu quả trong thực tế, đem lại lợi ích cho nhà nước, cho xã hội và cho người lao động       
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức- phpas lý do cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằn thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Từ khái niện trên đảm bảo pháp chế cũng được hiểu như là những điều kiện, những phương tiện và những khả nawg thực hiện trên thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm xây dụng và củng cố chính quyền nhân dân, do dân, vì dân, bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của công dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Việc đảm bảo pháp chế có ý nghĩa to lớn trong quản lý nhà nước nói chung và trong quản lý hành chính nói riêng.”[1]
4. Một số quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là nhiệm vụ chính trị thường xuyên nhằm giải quyết yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của công dân, ổn định xã hội để phát triển kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; ngày 11-11-2011 Quốc hội đã ban hành Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 và Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 tất cả đều có hiệu lực kể từ ngày 01-7-2012.
Cùng với việc ban hành Luật khiếu nại tố cáo, Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn công tác tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp… như sau: TT số 07/2011/TT-TTCP ngày 28-7-2011 hướng dẫn quy trình tiếp công dân; TTLT số 10/2011/TTLT-BTP-TTCP ngày 6-6-2011 hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý trong việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính; NĐ số 86/2011/NĐ-CP ngày 22-9-2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; TTLT số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19-10-2011 hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện về bồi thường nhà nước; ;  Quyết định số 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/06/2008 của Thanh tra Chính phủ Về việc ban hành mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại; Quyết định số 2278/2007/QĐ-TTCP ngày 24/10/2007 của Thanh tra Chính phủ Ban hành quy chế lập, quản lý hồ sơ thanh tra, hồ sơ giải quyết khiếu nại, hồ sơ giải quyết tố cáo… và 17 thông tư và quyết định  về quy trình tiếp công dân, xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các bộ ngành.
Đây là những bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá quan điểm đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng được những đòi hỏi, bức xúc của thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo…



[1] Ths Hoàng Văn Sao, chương XII giáo trình “Luật Hành Chính VIệt Nam”- Đại Học Luật Hà nội. tr341- 342.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét