Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Những biểu hiện cụ thể về nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay


Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, khao khát về một xã hội công bằng tốt đẹp, Việt Nam đã bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ một nước có xuất phát điểm thấp, nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa đã và đang gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức. Trong giai đoạn đầu thực hiện Đảng và Nhà nước ta đã mắc phải những sai lầm, áp dụng những đường lối, chính sách không phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam do chưa hiểu đúng bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ quan nóng vội và duy ý chí. Để biết được thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay như thế nào, em đã chọn đề bài: “Những biểu hiện cụ thể về nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”.


Cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một cuộc cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) nhằm xây dựng một xã hội mới tốt đep nhất từ trước tới nay. Đó là xã hội mang lại lợi ích của đại đa số con người.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội XHCN. Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến có lực lượng sản xuất thấp, phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, tàn dư của chế độ thực dân phong kiến, các thế lực thù địch chống phá cách mạng nên thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam kéo dài với rất nhiều khó khăn và phức tạp.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi đã hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đất nước thống nhất.
Thứ nhất là phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng  sản xuất.
Thứ hai là theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, những nước nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên CNXH mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba là căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại cùng với điều kiện lịch sử của Việt Nam. Trong quá trình phát triển của cách mạng, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân lao động mong muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh’’
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự tồn tại những yếu tố của xã hội thực dân nửa phong kiến bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Về kinh tế, trong thời gian đầu đi lên CNXH, do chưa hiểu rõ đặc điểm kinh tế trong TKQĐ lên CNXH, Việt Nam có nền kinh tế bao cấp và chỉ thừa nhận hai thành phần kinh tế, đó là thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Nền kinh tế của đất nước rơi vào tình trạng ‘‘cha chung không ai khóc’’, suy thoái cục bộ tất yếu phải thay đổi. Hiện nay Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Về chính trị, kết cấu giai cấp nước ta đa dạng phức tạp, bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức,… Trong một giai cấp tàng lớp cũng  có nhiều bộ phận có trình độ và ý thức khác nhau. Về tư tưởng – văn hóa, Việt Nam tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác nhau. Cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác Lê Nin, nước ta vẫn còn tồn tại tư tưởng phong kiến, tâm lí tiểu nông,…
II.  Nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân lao động.
Nội dung của kinh tế trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta hiện nay thể hiện ở cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế; kinh tế nông thôn; nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thể hiện ở nền tài chính, ngân hàng và lưu thông tiền tệ; cũng như thể hiện rõ trong lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập  trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung này bao gồm những vấn đề cụ thể như sau:
1.1                         Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất là yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới.
Con người là lực lượng sản xuất cơ bản, cho nên trong lao động con người có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kĩ thuật và công nghệ tiên tiến nhất. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toà diện hoạt động kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chỉ có hoàn thành nhiệm vu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất- kĩ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động.
1.2 Xây dùng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đang trên con đường xây dựng quan hệ XHCN phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trên cơ sở thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước không ngừng được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.     
Trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá thể và tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có những hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức đi từ thấp đến cao.
1.3 Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh. Chúng ta mở cửa nền kinh tế, thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm; mở rộng phân công lao động quốc tế tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới, mở rộng quan hệ sản xuất kinh tế quốc tế phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vàp nội bộ của nhau. Muốn vậy phải từng bước năng cao sức cạnh tranh quốc tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh quốc gia.
Ví dụ, nước ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống; tham gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tăng cường quan hệ với các nước phát triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế khác; có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của TKQĐ lên CNXH là cuộc đấu tranh chống lên những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH; tiến hành xây dựng, củng cố Nhà nước và nền dân chủ XHCN ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động; xây dựng Đảng cộng sản trong sạch lãnh đạo giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh trong từng thời kỳ lịch sử.
2.1 xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
 Việc xây dựng nền dân chủ trong TKQĐ là mang tính tất yếu, không thể tránh khỏi và cần phải chú tâm xây dựng. Hình thức xây dựng nền dân chủ có những đặc trưng như nó đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân và nhà nước là thực thể để bảo vệ và phát huy quyền lực ấy. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của nền dân chủ. Hơn nữa, nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, và chế độ sở hũu ấy là đặc điểm kinh tế cơ bản của nền dân chủ. Ngoài ra, trên cở sở của sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội. trong nền dân chủ tất cả mọi người có được đầy đủ mọi quyền được phát triển và sáng tạo. Thực hiện nền dân chủ XHCN, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội, thực hiện các liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với  nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Ví dụ: Mọi công dân Việt Nam đủ điều kiện Luật định được tham gia bầu cử và ứng cử các cơ quan đại diện của mình trong bộ máy nhà nước.
2.2 Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nội dung của nhà nước được thể hiện trên năm mặt cụ thể và trên ba lĩnh . Thứ nhất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thứ hai, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chuyên chính của giai cấp. Thứ ba là xây dựng một nền chuyên chính vô sản. Thứ tư, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ năm nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt là nhà nước không còn chuyên chính, là nửa nhà nước kiểu mới.
Ví dụ: Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
2.3 Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
            Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại. Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để xây dựng thành công nền văn hóa XHCN, chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của cộng đồng 54 dân tộc anh em; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Việt Nam đã và đang hướng tới nền văn hóa XHCN ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người khác nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát huy, phát triển. Chính vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.
2.4.         Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng là tổ chức được trang bị đầy đủ, khoa học lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có khả năng nhận thức được các quy luật khách quan của xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam đề ra các đường lối, chính sách phát triển Đất nước, tạo sự nhất trí ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực này của TKQĐ lên CNXH là thực hiện tuyên truyền phổ biến tư tưởng của giai cấp công nhân cho toàn xã hội, khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa trên thế giới.
Nước ta cần phải làm cho thế giới quan Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện ngày càng rõ nết trong đạo đức và lối sống của mỗi con người. Nhà nước từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra những điều kiện cho mọi nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và trực tiếp sang tạo ra những giá trị văn hóa; đấu tranh chống mọi tàn dư tư tưởng và văn hóa lạc hậu phản động do xã hội cũ để lại hoặc do các thế lực thù địch xâm nhập vào. Việt Nam tiến tới xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và con người mới xã hội chủ nghĩa.  
Việt Nam thực hiện việc khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại, xóa hết những hủ tục phong kiến hà khắc, những phong tục lỗi thời gây cản trở trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, tiến hành tuyên truyền về những điều hay lẽ phải để nâng cao nhận thức của người dân, nhất là những dân tộc ở vùng cao, vùng sâu vùng xa. Quá trình thực hiện gặp phải rất nhiều khó khăn vì nó đã trở thành thói quen của người dân. Đảng và nhà nước từng bước khắc phục sự chênh lệch giữa các vùng miền các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm tạo sự bình đẳng xã hội, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện tiền đề cho tự do của người khác; không ngừng gắn kết sự đoàn kết của 54 dân tộc anh em lại với nhau, tạo nên một sự thống nhất không thể tách rời, cùng chung sức một lòng xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.
Ví dụ:Nhà nước bài trừ mê tín dị đoan, tục tảo hôn, bất bình đẳng giới trong xã hội; từng bước tiến hành xây dựng nông thôn mới.



Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ tất yếu trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với những biểu hiện cụ thể về nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, xã hội trong thời kỳ này như tìm hiểu ở trên, có thể hiểu phần nào về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước ta đang gặp phải rất nhiều khó khăn trên con đường này, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ còn kéo dài và diễn biến phức tạp. Chính vì vậy, Đảng , Nhà nước và toàn thể nhân dân phải đoàn kết, chung sức để Việt Nam có những bước tiến dài trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội rút ngắn thời kỳ quá độ, xây dựng thành công nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét