Là một dân tộc yêu chuộng
hòa bình, khao khát về một xã hội công bằng tốt đẹp, Việt Nam đã bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ một nước có xuất
phát điểm thấp, nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa đã và đang gặp
phải rất nhiều khó khăn và thách thức. Trong giai đoạn đầu thực hiện Đảng và
Nhà nước ta đã mắc phải những sai lầm, áp dụng những đường lối, chính sách
không phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam do chưa hiểu đúng bản chất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ quan nóng vội và duy ý chí. Để biết
được thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay như thế nào, em đã
chọn đề bài: “Những biểu hiện cụ thể về nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng –
văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”.
Cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) là một cuộc cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa) nhằm xây dựng
một xã hội mới tốt đep nhất từ trước tới nay. Đó là xã hội mang lại lợi ích của
đại đa số con người.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc, toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực
hiện sự chuyển biến từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội XHCN. Việt Nam
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến có lực lượng sản xuất thấp, phải gánh chịu
những hậu quả nặng nề của chiến tranh, tàn dư của chế độ thực dân phong kiến,
các thế lực thù địch chống phá cách mạng nên thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã
hội (CNXH) ở Việt Nam kéo dài với rất nhiều khó khăn và phức tạp.
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước, sau khi đã hoàn thành thắng lợi
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đất nước thống nhất.
Thứ nhất là phát
triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Loài
người đã phát triển qua các hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái
kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau
cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội trước nó. Sự biến đổi của các
hình thái kinh tế - xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai là theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, những nước nghèo nàn
lạc hậu, chậm phát triển kinh tế vẫn có khả năng tiến thẳng lên CNXH mà không
phải trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba là căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại cùng với điều kiện lịch
sử của Việt Nam. Trong quá trình phát triển của cách mạng, con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân lao
động mong muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhằm thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh’’
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự tồn tại những yếu tố của xã hội thực
dân nửa phong kiến bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối
quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội. Về kinh tế, trong thời
gian đầu đi lên CNXH, do chưa hiểu rõ đặc điểm kinh tế trong TKQĐ lên CNXH,
Việt Nam có nền kinh tế bao cấp và chỉ thừa nhận hai thành phần kinh tế, đó là
thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp
tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Nền kinh tế của đất nước rơi
vào tình trạng ‘‘cha chung không ai khóc’’, suy thoái cục bộ tất yếu phải thay
đổi. Hiện nay Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở
hữu tư nhân. Về chính trị, kết cấu
giai cấp nước ta đa dạng phức tạp, bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức,… Trong một giai cấp tàng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ và ý thức khác
nhau. Về tư tưởng – văn hóa, Việt Nam
tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác nhau. Cùng với tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ nghĩa Mác Lê Nin, nước ta vẫn còn tồn tại tư tưởng phong kiến, tâm
lí tiểu nông,…
II. Nội dung kinh tế, chính
trị, tư tưởng – văn hóa, xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã
hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ
sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của kinh tế, nâng cao đời
sống nhân dân lao động.
Nội dung của kinh tế trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta hiện nay thể hiện ở cơ
cấu nền kinh tế nhiều thành phần; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế;
kinh tế nông thôn; nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thể
hiện ở nền tài chính, ngân hàng và lưu thông tiền tệ; cũng như thể hiện rõ
trong lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung này bao gồm những
vấn đề cụ thể như sau:
1.1
Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất.
Lực
lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất là
yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới.
Con người là lực lượng
sản xuất cơ bản, cho nên trong lao động con người có khả năng sử dụng và quản
lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kĩ thuật và công nghệ tiên tiến nhất. Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Đảng ta đã tập
trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước
mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại
để có một nền kinh tế phát triển cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản toà diện hoạt động kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với
khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát
triển và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chỉ có hoàn thành nhiệm vu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất- kĩ thuật
cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động.
1.2 Xây dùng
quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đang trên con đường xây dựng
quan hệ XHCN phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trên cơ sở thực
hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước không ngừng
được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta, chế độ
sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước;
kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá
thể và tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên
ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản
xuất. Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có những hình thức phân phối và
nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như xác lập địa vị làm chủ của
người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới
nhiều hình thức đi từ thấp đến cao.
1.3 Mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại:
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân
tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh. Chúng ta mở cửa
nền kinh tế, thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế
kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm;
mở rộng phân công lao động quốc tế tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là
cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên
bắt kịp trình độ thế giới, mở rộng quan hệ sản xuất kinh tế quốc tế phải dựa
trên nguyên tắc bình đẳng đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vàp nội bộ của
nhau. Muốn vậy phải từng bước năng cao sức cạnh tranh quốc tế; tích cực khai
thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham gia
hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn
mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực
cánh sinh, bảo vệ an ninh quốc gia.
Ví dụ, nước ta
đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống; tham gia tích cực các
hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC);
tăng cường quan hệ với các nước phát triển và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực
và quốc tế khác; có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần
70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Nội dung cơ bản trong
lĩnh vực chính trị của TKQĐ lên CNXH là cuộc đấu tranh chống lên những thế lực
thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH; tiến hành xây dựng, củng cố Nhà
nước và nền dân chủ XHCN ngày càng vững mạnh, đảm bảo quyền làm chủ trong hoạt
động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động; xây dựng Đảng
cộng sản trong sạch lãnh đạo giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh trong từng
thời kỳ lịch sử.
2.1 xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa
Việc xây dựng nền dân chủ trong TKQĐ là mang
tính tất yếu, không thể tránh khỏi và cần phải chú tâm xây dựng. Hình thức xây
dựng nền dân chủ có những đặc trưng như nó đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân
và nhà nước là thực thể để bảo vệ và phát huy quyền lực ấy. Đây là đặc trưng cơ
bản nhất của nền dân chủ. Hơn nữa, nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, và chế độ sở hũu ấy là đặc
điểm kinh tế cơ bản của nền dân chủ. Ngoài ra, trên cở sở của sự kết hợp hài
hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội. trong nền dân
chủ tất cả mọi người có được đầy đủ mọi quyền được phát triển và sáng tạo. Thực hiện nền dân
chủ XHCN, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ xã hội, thực hiện các liên minh giai
cấp giữa giai cấp công nhân với nông dân
và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Ví dụ: Mọi công dân Việt
Nam đủ điều kiện Luật định được tham gia bầu cử và ứng cử các cơ quan đại diện
của mình trong bộ máy nhà nước.
2.2 Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nội dung của nhà nước
được thể hiện trên năm mặt cụ thể và trên ba lĩnh . Thứ nhất, nhà nước xã hội
chủ nghĩa là công cụ cơ bản nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thứ hai, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ
chuyên chính của giai cấp. Thứ ba là xây dựng một nền chuyên chính vô sản. Thứ
tư, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Thứ năm nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt là nhà
nước không còn chuyên chính, là nửa nhà nước kiểu mới.
Ví dụ: Việt Nam là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân.
2.3 Xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa.
2.4.
Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng là tổ chức được
trang bị đầy đủ, khoa học lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, có khả năng nhận thức được các quy luật khách quan của xã hội. Đảng cộng
sản Việt Nam đề ra các đường lối, chính sách phát triển Đất nước, tạo sự nhất
trí ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực này
của TKQĐ lên CNXH là thực hiện tuyên truyền phổ biến tư tưởng của giai cấp công
nhân cho toàn xã hội, khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực
đến tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ
nghĩa tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hóa trên thế giới.
Nước ta cần phải làm cho thế giới
quan Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước chiếm vị trí chủ đạo trong
đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện ngày càng rõ nết trong đạo đức và lối
sống của mỗi con người. Nhà nước từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, tạo ra những điều kiện cho mọi nâng cao mức hưởng thụ văn
hóa và trực tiếp sang tạo ra những giá trị văn hóa; đấu tranh chống mọi tàn dư
tư tưởng và văn hóa lạc hậu phản động do xã hội cũ để lại hoặc do các thế lực
thù địch xâm nhập vào. Việt Nam tiến tới xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam thực hiện việc khắc phục tệ nạn do xã hội cũ để lại, xóa hết những hủ tục
phong kiến hà khắc, những phong tục lỗi thời gây cản trở trong quá trình quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, tiến hành tuyên truyền về những điều hay lẽ
phải để nâng cao nhận thức của người dân, nhất là những dân tộc ở vùng cao,
vùng sâu vùng xa. Quá trình thực hiện gặp phải rất nhiều khó khăn vì nó đã trở
thành thói quen của người dân. Đảng và nhà nước từng bước khắc phục sự chênh
lệch giữa các vùng miền các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm tạo sự bình đẳng
xã hội, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người theo mục tiêu lý tưởng
tự do của người này là điều kiện tiền đề cho tự do của người khác; không ngừng
gắn kết sự đoàn kết của 54 dân tộc anh em lại với nhau, tạo nên một sự thống
nhất không thể tách rời, cùng chung sức một lòng xây dựng đất nước ta ngày càng
giàu mạnh.
Ví
dụ:Nhà nước bài trừ mê tín dị đoan, tục tảo hôn, bất bình đẳng giới trong xã
hội; từng bước tiến hành xây dựng nông
thôn mới.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ tất yếu trên
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với những biểu hiện cụ thể về
nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, xã hội trong thời kỳ này như tìm
hiểu ở trên, có thể hiểu phần nào về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Nước ta đang gặp phải rất nhiều khó khăn trên con đường này, thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ còn kéo dài và diễn biến phức tạp. Chính vì
vậy, Đảng , Nhà nước và toàn thể nhân dân phải đoàn kết, chung sức để Việt Nam
có những bước tiến dài trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội rút ngắn thời
kỳ quá độ, xây dựng thành công nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét