Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

Bài tập luật hình sự

BÀI TẬP SỐ 5
Hãy bình luận các ý kiến sau
1.      Đồng phạm là trường hợp có nhiều người cùng tham gia việc phạm tội.
2.      Người gây ra thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ luôn được miễn trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó.
Bài làm
A. BÌNH LUẬN VỀ Ý KIẾN : “Đồng phạm là trường hợp có nhiều người cùng tham gia việc phạm tội
I Phân tích quy định của pháp luật về Đồng phạm (Điều 20, BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Một tội phạm có thể do một người riêng lẻ gây ra và cũng có thể do hai hoặc nhiều người cùng gây ra. Khi có nhiều người cùng cố ý thực hiện một tôi phạm thì trường hợp này được gọi là đồng phạm. Đồng phạm được coi là hình thức tội phạm đặc biệt. Theo khoản 1 Điều 20 thì “đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Đồng phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội riêng lẻ, do đồng phạm là sự liên kết hành động phạm tội của một số người làm cho tội phạm có tính chất mới, cụ thể là:
- Trường hợp nhiều người cùng gây ra tội phạm thì thường gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn trường hợp chỉ có một người phạm tội.
- Trong trường hợp đồng phạm, số người, thời gian vào việc thực hiện tội phạm nhiều hơn và giữa họ có điều kiện giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất, do đó hoạt động phạm tội kiên quyết và táo bạo hơn. Ngược lại, người phạm tội riêng lẻ có khi không dám liều lĩnh phạm tội đến cùng.
- Trong vụ đồng phạm, dễ che giấu vết tích của tội phạm để trốn tránh sự truy tìm của cơ quan điều tra.
Đồng phạm là một thể thống nhất không thể tách rời của những yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó có những yếu tố quan trọng nhất như: Có từ hai người trở lên tham gia; cùng chung hành động với nhau, cùng cố ý.
Ø  Theo đó, về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi hai dấu hiệu:
- Dấu hiệu thứ nhất: Đồng phạm đòi hỏi ít nhất phải có hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. tức là phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- dấu hiệu thứ hai: những người này phải cùng cố ý thực hiện tội phạm. Tức là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi:(1) thực hiện tội phạm; (2) tổ chức thực hiện tội phạm; (3)xúi giục người khác thực hiện tội phạm; (4) giúp sức người khác thực hiện tội phạm.
Trong vụ đồng phạm, Tội phạm được thực hiện do sự nỗ lực chung của một số người, hành động của mỗi người là điều kiện cần thiết cho sự hoạt động của người khác, là một khâu trong sự hoạt động chung của tất cả những người đồng phạm. Họ cùng trực tiếp thực hiện tội phạm và tổng hợp những hành vi của họ tạo thành hành vi phạm tội có đủ dấu hiệu của CTTP nhất định.
Hậu quả của tội phạm là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người cùng cố ý tham gia vào việc thực hiện tội phạm. Giữa hành vi của mội người và hâu quả của tội phạm luôn có mối quan hệ nhân quả.  Mối quan hệ nhân quả có thể mang tính chất trực tiếp như cung cấp cho người thực hành công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm hoặc khắc phục các trở ngại trong việc thực hiện tội phạm; có thể biểu hiện thông qua nhận thức của người thực hiện như: Xúi giục người thực hành phạm tội, giúp đỡ họ thực hiện tội phạm.
Ø  Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi dấu hiệu sau:
-         Dấu hiệu về lỗi: những người tham gia thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chi cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự tham gia của những người đồng phạm khác;
-         Dấu hiệu về mục đích (không bắt buộc đối với mọi đồng phạm):  đối với những tội có dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì đồng phạm còn đòi hỏi những người thực hiện phải có cùng mục đích thực hiện tội đó
Khoản 2 của Điều luật chỉ rõ các loại đồng phạm gồm có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
-  Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy.
-  Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, thể hiện qua việc tự mình bắt tay vào việc thực hiện tội phạm.
-  Người xúi giục: Là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
            Khoản 3, Điều 20 quy định “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.”. Phạm tội có tổ chức có hai đặc điểm cơ bản: một là, nhóm phạm tội với phương hướng hoạt động có tính lâu dài bền vững, tồn tại quan hệ chỉ huy – phục tùng; hai là, luôn có sự chuản bị chu đáo, đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện và che giấu Tội phạm. Do vậy, phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt, nhưng không đồng nhất với khái niệm đồng phạm. tức là, không phải mội đồng phạm đều là phạm tội có tổ chức.[1]
I.                   Phân tích, đánh giá ý kiến
Ý kiến cho rằng: “Đồng phạm là trường hợp có nhiều người cùng tham gia việc phạm tội” là không chính xác bởi lẽ ý kiến này đưa ra khái niệm về đồng phạm tuy đã thỏa mãn hai dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan nhưng thiếu một dấu hiệu bắt buộc của Đồng phạm thuộc mặt chủ quan đó là: những người cùng thực hiện tội phạm cùng có lỗi cố ý
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự thì Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm.
Ví dụ1: Biết K vắng nhà, A phá khóa cửa vào ăn trộm 1 cái tivi. B đi qua thấy nhà này cửa mở nên nẻn vào bê cái laptop và cái đồng hồ. Đi đến cổng khu trung cư, A, B bị bảo vệ bắt được. Tình huống này A, B cùng phạm tội trộm cắp tài sản nhưng không cùng nhau thực hiện nên không được coi là đồng phạm.
Đồng phạm phải do cùng cố ý thực hiện tội phạm do lỗi cố ý. Nếu là tội phạm do vô ý thì không thể có đồng phạm.
Sự cùng cố ý thực hiện tội phạm của những người đồng phạm thể hiện trên mặt lý trí và ý chí như sau:
-  Về lý trí: Mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người khác cùng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng mình. Nếu chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác có hành vi nguy hiểm cho xã hội với mình thì chưa phải là cùng cố ý và do vậy chưa phải là đồng phạm.
Ví dụ: A mượn B súng để giết C nhưng lại lấy lý do là đi bắn chim. B biết mục đích thực sự của A nhưng vờ như không biết và vẫn cho A mượn vì B cũng ghét C. Trong tình huống này A chỉ biết hành vi của mình là nguy hiểm mà B cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cho nên, A và B không phải là đồng phạm.
Mặt khác mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.
- Về ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn hậu quả xảy ra hoặc có ý thức để mặc hậu quả xảy ra khi thỏa thuận, bàn bạc kế hoạch phạm tội và phân công vai trò trong thực hiện tội phạm.
Động cơ và mục đích của những người đồng phạm có thể được thống nhất trong tất cả những người đồng phạm, nhưng có thể là khác nhau trong mỗi người bọn họ.
Ví dụ: Trong một vụ đồng phạm cố ý gây thương tích, có người phạm tội do động cơ đê hèn trả thù cá nhân, có người giúp đỡ thực hiện tội phạm do tình cảm anh em,…
Đối với những tội phạm mà động cơ và mục đích nêu trong điều luật là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm thì chỉ những người phạm tội có động cơ và mục đích giống nhau thì mới có thể là đồng phạm của nhau.
Ví dụ: Vì bất mãn với chính sách bồi thường giải phóng mặt tỉnh X, A đã thuê B đánh hai cán bộ trung tâm phát triển quỹ đất, gây thương tích cho hai người này lên tới 50% và B không biết mục đích của A là chống chính quyền nhân dân. Theo đó, A và B không phải là đồng phạm tội phá hoại các chính sách kinh tê –xã hội.
Theo đó, cho dù có có nhiều người tham gia việc phạm tội nhưng nếu không cùng lỗi cố ý thì cũng không phải là đồng phạm. Các trường hợp đó có thể là:
TH1: Lỗi của tất cả người tham gia việc phạm tội là cùng vô ý đối với hậu quả xảy ra. Ví dụ: vợ chồng A và B cùng nhau cưa cây xoan trong vườn nhà mình ngay sát nhà C. Cây xoan đổ vào nhà ông C làm xập mái ngói nhà C và khiến mẹ C chết do bị ngói rơi vào đầu. Ta thấy, hậu quả mẹ C chết là do hành vi chặt xoan của A, B tuy nhiên hai người này không cố ý và không mong muốn hậu quả nà xảy ra. Như vậy, trường hợp này không thể có đồng phạm.
TH2: Lỗi của người thực hành là lỗi cố ý, còn người giúp sức/ xúi giục là vô ý. Ví dụ: anh A dùng thuốc mê làm chị B bất tỉnh. Sau đó, A nhờ C – là người đi đường trở A và B về nhà A và nói B là em gái mình bị ốm. Về đến nhà, A thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với B. Ta thấy, C là người vô ý giúp sức cho tội phạm. A và C không phải là đồng phạm.
TH3: Lỗi của người xúi giục/ giúp sức là cố ý và lỗi của người thực hành là vô ý hay không có lỗi. Ví dụ: Bà A muốn giết chồng mình để đi theo ông H nên ngày 12/10/2012, ông B chồng bà bị ốm, bà đã hòa thuốc độc vào cốc nước cam bảo con mình là T (20 tuổi, là sinh viên đại học Luật Hà Nội) cho bố uống! Hậu quả ông B chết. Trong trường hợp này, mặc dù T là người trực tiếp cho bố mình là ông B uống nhưng không hề biết về việc trong nước cam có độc. Như vậy, A và T không phải là đồng phạm.
Nói tóm lại, không phải cứ “có nhiều người cùng tham gia việc phạm tội” thì có đồng phạm. Ở đây chúng ta còn cần phải xem xét kỹ lưỡng về yếu tố lỗi của chủ thể. Khi thỏa mãn cả ba dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm như đã phân tích ở trên thì mới có đồng phạm. Điều đó có nghĩa là những người tham gia việc phạm tội phải cùng có lỗi cố ý thì mới được coi là đồng phạm.
II.               Đề xuất hướng sửa đổi
Theo phần phân tích, đánh giá ý kiến như trên, em xin được đưa ra ý kiến bổ sung, sửa đổi ý kiến trên đảm bảo đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu của đồng phạm, như sau “Đồng phạm là trường hợp nhiều người cùng có lỗi cố ý tham gia việc phạm tội”-phần gạch chân là phần bổ sung.
 Khẳng định như vậy mới thể hiện rõ bản chất pháp lý của chế định đồng phạm. Khi đặt khẳng định này trong mối tương quan với khái niệm đồng phạm theo quy định của pháp luật hiện hành (Khoản 1, Điều 20, BLHS 2009), ta có thể thấy được một số vướng mắc cần được sửa đổi bổ sung ở định nghĩa này.
Một là, các nhà làm luật nước ta cần ghi nhận bổ sung cụm từ “do cố ý” vào cuối khoản 1 Điều 20 Bộ luật Hình sự. Bởi lẽ, trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm do vô ý thì không bao giờ có đồng phạm cả (căn cứ vào các dấu hiệu chủ quan của đồng phạm mà khoa học luật hình sự đã luận giải).
Hai là, khoản 1 Điều 20 BLHS mới chỉ bao quát được hành vi của người thực hành (đồng thực hành) khi ghi nhận “cùng thực hiện một tội phạm”, mà chưa phản ánh hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác. Trong khi đó, những người đồng phạm khác họ không cùng thực hiện một tội phạm, mà họ chỉ tham gia cùng thực hiện một hoặc nhiều tội phạm.... Do đó, cần sửa thành “cố ý cùng tham gia thực hiện một hoặc nhiều tội phạm” mới đầy đủ và chính xác hơn.[2]
Theo đó, có thể sửa đổi, bổ sung định nghĩa về đồng phạm theo hai hướng như sau: “1.Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng tham gia thực hiện một hoặc nhiều tội phạm do cố ý”; “Đồng phạm là trường hợp nhiều người cùng cố ý tham gia việc phạm tội”
B. Bình luận về ý kiến : “Người gây ra thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ luôn được miễn trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó
I. Phân tích quy định của pháp luật về sự kiện bất khả kháng. (Điều 11 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009)
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Sự kiện bất ngờ là trường hợp đã gây ra hậu quả thiệt hại cho xã hội nhưng hành vi gây thiệt hại đó không phải chịu TNHS vì họ không buộc phải thấy trước hoặc không thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, tức là họ không có lỗi. Ví dụ: A đang điều khiển xe máy có một cành cây rơi trúng đầu làm A mất tay lái, gây tai nạn cho B đang đi xe bên cạnh, B bị ngã đập đầu xuống đường, trấn thương 30%. Trong tình huống này, A không có lỗi trong việc gây thiệt hại cho B vì sự kiện cành cây rụng được coi là sự kiện bất  ngờ, do đó, A không phải chịu TNHS.
            Một người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ thuộc một trong hai trường hợp sau:
            a) Không thể thấy trước hậu quả của hành vi:
            Không thể thấy trước được hậu quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi (hành động hoặc không hành động) người có hành vi không nhân thức được hành vi của mình gây hậu quả, sự nhận tức này của họ có cơ sở khoa học và được mọi người thừa nhận, ai trong hoàn cảnh này đều không thể thấy trước hậu quả sẽ xảy ra, nhưng thực tế hậu quả lại xảy ra. Việc giải qyết mâu thuẫn giữa hậu quả tất yếu xảy ra với nhận thức của người có hành vi gây hậu quả đó không phải bao giờ cũng dễ dàng.
            Thông thường người có hành vi gây ra hậu quả cho rằng mình không thể thấy trước hậu quả, còn người bị thiệt hại thì lại cho rằng người có hành vi có thể thấy trước hậu quả những vẫn hành động. Vì vậy, khi đánh giá một người có hành vi gây hậu quả có thấy trước được hậu quả của hành vi hay không phải căn cứ vào điều kiện khách quan và chủ quan khi xảy ra sự việc. Về khách quan, trong hoàn cảnh cụ thể đó, bất kỳ ai cũng không thể thấy trước được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm, còn về chủ quan phải xem xét các đặc điểm về nhân thân của người có hành vi gây ra hậu quả như: tuổi, trình độ hiểu biết, bệnh tật vàn hững đặc điểm nhân thân khác có ảnh hưởng đến nhận thức của họ. Ví dụ: Một người đẩy mạnh cửa sổ của nhà mình ra để hóng mát nhưng ở phía bên ngoài cửa sổ có một cậu bé đang đứng bắt tổ chim, làm cho cậu bé này ngã xuống đất, đập đầu vào hòn gạch nên chết.
            b) Không buộc phải thấy trước:
            Không buộc phải thấy trước là tà tuy có khả năng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, nhưng theo pháp luật không buộc họ phải thấy trước hậu quả của hành vi và nếu có hậu quả xảy ra thì họ không phải chịu trách nhiệm hình về hành vi nguy hiểm đó. Ví dụ: A đang điều khiển xe trên đường cao tốc theo đúng quy định luật giao thông đường bộ thì bất ngờ B băng qua đường ngay đầu xe A không xử lý kịp đã đâm vào người này làm cho họ chết. Trong tình huống này, khi để xe đâm vào người băng qua đường, A có thể nhận thức được hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, nhưng trong trường hợp này theo pháp luật thì không buộc họ phải thấy trước, nên họ không có lỗi.
            Lưu ý, Trường hợp sự kiện bất ngờ và vô ý do cẩu thả có điểm giống và khác nhau. Ở cả hai trường hợp, chủ thể thực hiện đều không thấy trước hoặc không thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình đã gây ra. Điểm khác nhau ở đây là: Trường hợp vô ý vì cẩu thả, Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi, việc họ gây thiệt hại là do họ có lỗi cẩu thả. Còn trong sự kiện bất ngờ, chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm của hành vi hoặc tuy có nghĩa vụ nhưng không đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó, hành vi gây thiệt hại là do khách quan.
            Khi đặt vấn đề không buộc người gây thiệt hại phải thấy trước hành vi của mình gây ra hậu quả không chỉ căn cứ vào các văn bản pháp luật cụ thể nào của Nhà nước quy định về việc không buộc, mà còn phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự việc, trình độ nhận thức của người gây thiệt hại và các tình tiết khác. Thông thường, nếu mọi người nói chung rơi vào hoàn cảnh đó thì cũng không thấy được hậu quả xảy ra, thì người gây thiệt hại cũng được công nhận là gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ.
Sự kiện bất ngờ là trường hợp không có lỗi, nhưng không vì thế mà cho rằng tất cả những trường hợp không có lỗi đều là sự kiện bất ngờ. Cần phải phân biệt sự kiện bất ngờ với trường hợp tình trạng không thể khắc phục được. Đó là trường hợp chủ thể không có cách nào ngăn được hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thấy trước [3]
II. Phân tích, đánh giá ý kiến.
Như đã phân tích rất kỹ về quy định của pháp luật về sự kiện bất ngờ ở trên thì: Sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi nguy hại cho xã hội trinh trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc thấy trước tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả của hành vi đó, tức là người có hành vi nguy hiểm không có lỗi  trong việc gây ra hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Không có lỗi cũng tức là hành vi của họ không cấu thành tội phạm (thiếu dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của CTTP). Do đó, ý kiến cho rằng người gây thiệt hại cho xã hôi trong sự kiện bất ngờ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó là hoàn toàn chính xác.
Tuy nhiên, ý kiến lại khẳng định người gây thiệt hại trong sự kiện bất ngờ luôn được “miễn trách nhiệm hình sự” là sai, Bởi lẽ, Pháp luật đã quy định họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Hai thuật ngữ  “ Miễn trách nhiệm hình sự’ và “không phải chịu trách nhiệm hình sự” không đồng nhất với nhau, cần phân biệt, xác định thận trọng, chính xác.
Trách nhiệm hình sự được hiểu là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình”. Theo Điều 2 BLHS năm 1999 thì “chỉ người nào phạm một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS”. Để kết luận hành vi đó có phải là tội phạm hay không, tội đó là tội gì và hậu quả pháp lý bất lợi đặt ra là gì cần phải xem xét hành vi đó có thảo mãn các dấu hiệu của CTTP cụ thể hay không. Khi thỏa mãn các dấu hiệu bắt buộc trong CTTP cụ thể thì người đó đã thực hiện tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS và phải chịu TNHS[4].
Theo đó, không phải chịu trách nhiệm hình sự tức là không phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi của pháp luật hình sự về hành vi của mình vì họ không phải là người phạm tội. Hành vi đó là hành vi không sai trái, không vi phạm pháp luật hình sự, hoặc chỉ đáng xử lý về hành chính. Trong sự kiện bất ngờ, yếu tố không có lỗi đã loại trừ khả năng người gây thiệt hại có thực hiện tội phạm. Do đó, vấn đề trách nhiệm hình sự không được đặt ra đối với người gây thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ.
Miễn trách nhiệm hình sự là người đã phạm tội quy định trong BLHS nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. Tức là người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn là người phạm tội nhưng Tòa án không được quyết định bất cứ hình phạt nào, các biện pháp tư pháp nào khác nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị thiệt hại và xử lý các vật chứng. Người phạm tội được miễn TNHS vì những lý do sau: (1) do chuyển biến của tình hình kinh tế-xã hộ nên hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; (2) trước khi tội phạm bị phát giác người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả và việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hiệu quả của tội phạm. (3) người phạm tội được hưởng quyết định đại xá. Như vậy, bản thân hành vi của người được miễn trách nhiệm hình sự là vi phạm quy định của pháp luật hình sự.
Do đó, ý kiến trên là sai vì người gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ không phải chịu TNHS chứ không phải là miễn trách nhiệm hình sự.

III.Đề xuất hướng sửa đổi.
            Căn cứ những phân tích, đánh giá như trên, em xin đề xuất ý kiến sửa đổi ý kiến trên như sau: “ Người gây thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó”-phần gạch chân là nội dung sửa đổi. Khẳng định như vậy sẽ thể hiện được bản chất của sự kiện bất ngờ. Đối chiếu với quy định của BLHS (Điều 11) có thể thấy rằng : trường hợp không có thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu của hành vi suy cho cùng cũng là không có lỗi. Cho nên, Điều 11 BLHS cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Cần ghi nhận trực tiếp trường hợp một người thưc hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thấy hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không có lỗi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự:
- Để tránh lập lại về kỹ thuật lập pháp cần thay cụm từ sự kiện bất ngờ trong nội dung điều luật bằng cụm từ không có lỗi để phản ánh chính xác trường hợp này.
- Để tránh việc áp dụng không thống nhất pháp luật, đồng thời tránh làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm đòi hỏi cần quy định cụm từ “ rõ ràng” trước nội dung “ không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó…” nhằm xác định rõ ràng trường hợp sự kiện bất ngờ (không có lỗi) với các trường hợp có lỗi trong Bộ luật hình sự (cố ý hoặc vô ý)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét