BÀI
TẬP SỐ 5
Hãy
bình luận các ý kiến sau
1.
Đồng phạm là trường hợp có nhiều người cùng
tham gia việc phạm tội.
2.
Người gây ra thiệt hại cho xã hội do sự
kiện bất ngờ luôn được miễn trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong việc
gây ra thiệt hại đó.
Bài làm
A.
BÌNH LUẬN VỀ Ý KIẾN : “Đồng phạm là trường hợp có nhiều người cùng tham gia việc
phạm tội”
I Phân tích quy định của
pháp luật về Đồng phạm (Điều 20, BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009)
Một tội phạm có thể do
một người riêng lẻ gây ra và cũng có thể do hai hoặc nhiều người cùng gây ra.
Khi có nhiều người cùng cố ý thực hiện một tôi phạm
thì trường hợp này được gọi là đồng phạm. Đồng phạm được coi là hình thức tội
phạm đặc biệt. Theo khoản 1 Điều 20 thì “đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên
cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Đồng phạm có tính chất
nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội riêng lẻ, do đồng phạm là sự
liên kết hành động phạm tội của một số người làm cho tội phạm có tính chất mới,
cụ thể là:
- Trường hợp nhiều người cùng gây ra tội
phạm thì thường gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng hơn trường hợp
chỉ có một người phạm tội.
- Trong trường hợp đồng phạm, số người,
thời gian vào việc thực hiện tội phạm nhiều hơn và giữa họ có điều kiện giúp đỡ
nhau về tinh thần và vật chất, do đó hoạt động phạm tội kiên quyết và táo bạo
hơn. Ngược lại, người phạm tội riêng lẻ có khi không dám liều lĩnh phạm tội đến
cùng.
- Trong vụ đồng phạm, dễ che giấu vết
tích của tội phạm để trốn tránh sự truy tìm của cơ quan điều tra.
Đồng phạm là một thể thống
nhất không thể tách rời của những yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó có những
yếu tố quan trọng nhất như: Có từ hai người trở lên tham gia; cùng chung
hành động với nhau, cùng cố ý.
Ø Theo
đó, về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi hai dấu hiệu:
- Dấu hiệu thứ nhất: Đồng
phạm đòi hỏi ít nhất phải có hai người và hai người này phải có đủ điều kiện của
chủ thể của tội phạm. tức là phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
- dấu hiệu thứ hai: những
người này phải cùng cố ý thực hiện tội phạm. Tức là người đồng phạm phải tham
gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi:(1) thực hiện tội phạm; (2) tổ chức
thực hiện tội phạm; (3)xúi giục người khác thực hiện tội phạm; (4) giúp sức người
khác thực hiện tội phạm.
Trong vụ đồng phạm, Tội
phạm được thực hiện do sự nỗ lực chung của một số người, hành động của mỗi người
là điều kiện cần thiết cho sự hoạt động của người khác, là một khâu trong sự hoạt
động chung của tất cả những người đồng phạm. Họ cùng trực tiếp thực hiện tội phạm
và tổng hợp những hành vi của họ tạo thành hành vi phạm tội có đủ dấu hiệu của
CTTP nhất định.
Hậu quả của tội phạm là
kết quả chung do hoạt động của tất cả những người cùng cố ý tham gia vào việc
thực hiện tội phạm. Giữa hành vi của mội người và hâu quả của tội phạm luôn có
mối quan hệ nhân quả. Mối quan hệ nhân
quả có thể mang tính chất trực tiếp như cung cấp cho người thực hành công cụ,
phương tiện thực hiện tội phạm hoặc khắc phục các trở ngại trong việc thực hiện
tội phạm; có thể biểu hiện thông qua nhận thức của người thực hiện như: Xúi giục
người thực hành phạm tội, giúp đỡ họ thực hiện tội phạm.
Ø Về
mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi dấu hiệu sau:
-
Dấu hiệu về lỗi: những người tham gia thực
hiện tội phạm đều có lỗi cố ý. Khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người đồng phạm không chi cố ý với
hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự tham gia của những người đồng phạm
khác;
-
Dấu hiệu về mục đích (không bắt buộc đối
với mọi đồng phạm): đối với những tội có
dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì đồng phạm còn đòi hỏi những người thực
hiện phải có cùng mục đích thực hiện tội đó
Khoản
2 của Điều luật chỉ rõ các loại đồng phạm gồm có người tổ chức, người thực
hành, người xúi giục, người giúp sức.
- Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ
huy.
-
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm, thể hiện qua việc
tự mình bắt tay vào việc thực hiện tội phạm.
-
Người xúi giục: Là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện
tội phạm.
Khoản
3, Điều 20 quy định “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết
chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.”. Phạm tội có tổ chức có hai
đặc điểm cơ bản: một là, nhóm phạm tội với phương hướng hoạt động có tính lâu
dài bền vững, tồn tại quan hệ chỉ huy – phục tùng; hai là, luôn có sự chuản bị
chu đáo, đầy đủ về mọi mặt cho việc thực hiện và che giấu Tội phạm. Do vậy, phạm
tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt, nhưng không đồng nhất với
khái niệm đồng phạm. tức là, không phải mội đồng phạm đều là phạm tội có tổ chức.[1]
I.
Phân tích, đánh giá ý kiến
Ý
kiến cho rằng: “Đồng phạm là trường hợp có nhiều người cùng tham gia việc phạm
tội” là không chính xác
bởi lẽ ý kiến này đưa ra khái niệm về đồng phạm tuy đã thỏa
mãn hai dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan nhưng thiếu một dấu hiệu bắt buộc của Đồng phạm thuộc mặt chủ quan đó là: những
người cùng thực hiện tội phạm cùng có lỗi cố ý
Theo quy định tại khoản
1 Điều 20 Bộ luật hình sự thì Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm.
Đồng phạm là một khái
niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ
án có nhiều người tham gia. Tuy
nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham
gia đó phải cố ý cùng thực hiện một
tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm
thì không gọi là đồng phạm.
Ví dụ1: Biết K vắng
nhà, A phá khóa cửa vào ăn trộm 1 cái tivi. B đi qua thấy nhà này cửa mở nên nẻn
vào bê cái laptop và cái đồng hồ. Đi đến cổng khu trung cư, A, B bị bảo vệ bắt
được. Tình huống này A, B cùng phạm tội trộm cắp tài sản nhưng không cùng nhau
thực hiện nên không được coi là đồng phạm.
Đồng phạm phải do cùng cố ý thực hiện
tội phạm do lỗi cố ý. Nếu là tội phạm do vô ý thì không
thể có đồng phạm.
Sự cùng cố ý thực hiện tội phạm của những người đồng phạm thể hiện
trên mặt lý trí và ý chí như sau:
-
Về lý trí: Mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội
và đều biết người khác cùng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng mình. Nếu chỉ
biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác có hành vi
nguy hiểm cho xã hội với mình thì chưa phải là cùng cố ý và do vậy chưa phải là
đồng phạm.
Ví dụ: A mượn B súng để giết C nhưng lại
lấy lý do là đi bắn chim. B biết mục đích thực sự của A nhưng vờ như không biết
và vẫn cho A mượn vì B cũng ghét C. Trong tình huống này A chỉ biết hành vi của
mình là nguy hiểm mà B cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Cho nên, A và B
không phải là đồng phạm.
Mặt khác mỗi người đồng
phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả
chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.
- Về ý chí: Những người đồng phạm cùng
mong muốn hậu quả xảy ra hoặc có ý thức để mặc hậu quả xảy ra khi thỏa thuận,
bàn bạc kế hoạch phạm tội và phân công vai trò trong thực hiện tội phạm.
Động cơ và mục đích của
những người đồng phạm có thể được thống nhất trong tất cả những người đồng phạm,
nhưng có thể là khác nhau trong mỗi người bọn họ.
Ví dụ: Trong một vụ đồng phạm cố ý gây
thương tích, có người phạm tội do động cơ đê hèn trả thù cá nhân, có người giúp
đỡ thực hiện tội phạm do tình cảm anh em,…
Đối với những tội phạm
mà động cơ và mục đích nêu trong điều luật là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
phạm thì chỉ những người phạm tội có động cơ và mục đích giống nhau thì mới có
thể là đồng phạm của nhau.
Ví dụ: Vì bất mãn với
chính sách bồi thường giải phóng mặt tỉnh X, A đã thuê B đánh hai cán bộ trung
tâm phát triển quỹ đất, gây thương tích cho hai người này lên tới 50% và B
không biết mục đích của A là chống chính quyền nhân dân. Theo đó, A và B không
phải là đồng phạm tội phá hoại các chính sách kinh tê –xã hội.
Theo đó, cho dù có có
nhiều người tham gia việc phạm tội nhưng nếu không cùng lỗi cố ý thì
cũng không phải là đồng phạm. Các trường hợp đó có thể là:
TH1: Lỗi của tất cả người
tham gia việc phạm tội là cùng vô ý đối với hậu quả xảy ra. Ví dụ: vợ chồng A
và B cùng nhau cưa cây xoan trong vườn nhà mình ngay sát nhà C. Cây xoan đổ vào
nhà ông C làm xập mái ngói nhà C và khiến mẹ C chết do bị ngói rơi vào đầu. Ta
thấy, hậu quả mẹ C chết là do hành vi chặt xoan của A, B tuy nhiên hai người
này không cố ý và không mong muốn hậu quả nà xảy ra. Như vậy, trường hợp này
không thể có đồng phạm.
TH2: Lỗi của người thực
hành là lỗi cố ý, còn người giúp sức/ xúi giục là vô ý. Ví dụ: anh A dùng thuốc
mê làm chị B bất tỉnh. Sau đó, A nhờ C – là người đi đường trở A và B về nhà A
và nói B là em gái mình bị ốm. Về đến nhà, A thực hiện hành vi giao cấu trái ý
muốn với B. Ta thấy, C là người vô ý giúp sức cho tội phạm. A và C không phải
là đồng phạm.
TH3: Lỗi của người xúi
giục/ giúp sức là cố ý và lỗi của người thực hành là vô ý hay không có lỗi. Ví
dụ: Bà A muốn giết chồng mình để đi theo ông H nên ngày 12/10/2012, ông B chồng
bà bị ốm, bà đã hòa thuốc độc vào cốc nước cam bảo con mình là T (20 tuổi, là
sinh viên đại học Luật Hà Nội) cho bố uống! Hậu quả ông B chết. Trong trường hợp
này, mặc dù T là người trực tiếp cho bố mình là ông B uống nhưng không hề biết
về việc trong nước cam có độc. Như vậy, A và T không phải là đồng phạm.
Nói
tóm lại, không phải cứ “có
nhiều người cùng tham gia việc phạm tội” thì có đồng phạm. Ở đây chúng ta còn cần
phải xem xét kỹ lưỡng về yếu tố lỗi của chủ thể. Khi thỏa mãn cả ba dấu hiệu bắt
buộc của đồng phạm như đã phân tích ở trên thì mới có đồng phạm. Điều đó có
nghĩa là những
người tham gia việc phạm tội phải cùng có lỗi cố ý thì mới được coi là đồng phạm.
II.
Đề xuất hướng sửa đổi
Theo
phần phân tích, đánh giá ý kiến như trên, em xin được đưa ra ý kiến bổ sung, sửa
đổi ý kiến trên đảm bảo đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu của đồng phạm, như sau “Đồng phạm là trường hợp nhiều người cùng
có lỗi cố ý tham gia việc phạm tội”-phần
gạch chân là phần bổ sung.
Khẳng định như vậy mới thể hiện rõ bản chất
pháp lý của chế định đồng phạm. Khi đặt khẳng định này trong mối tương quan với
khái niệm đồng phạm theo quy định của pháp luật hiện hành (Khoản 1, Điều 20,
BLHS 2009), ta có thể thấy được một số vướng mắc cần được sửa đổi bổ sung ở định
nghĩa này.
Một là, các nhà làm luật nước
ta cần ghi nhận bổ sung cụm từ “do cố ý” vào cuối khoản 1 Điều 20 Bộ luật Hình
sự. Bởi lẽ, trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm do
vô ý thì không bao giờ có đồng phạm cả (căn cứ vào các dấu hiệu chủ quan của
đồng phạm mà khoa học luật hình sự đã luận giải).
Hai là, khoản 1 Điều 20 BLHS
mới chỉ bao quát được hành vi của người thực hành (đồng thực hành) khi ghi nhận
“cùng thực hiện một tội phạm”, mà chưa phản ánh hành vi phạm tội của những
người đồng phạm khác. Trong khi đó, những người đồng phạm khác họ không cùng
thực hiện một tội phạm, mà họ chỉ tham gia cùng thực hiện một hoặc nhiều tội
phạm.... Do đó, cần sửa thành “cố ý cùng
tham gia thực hiện một hoặc nhiều tội phạm” mới đầy đủ và chính xác hơn.[2]
Theo đó, có thể sửa đổi, bổ
sung định nghĩa về đồng phạm theo hai hướng như sau: “1.Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng tham
gia thực hiện một hoặc nhiều tội phạm do cố ý”; “Đồng phạm là
trường hợp nhiều người cùng cố ý tham gia việc phạm tội”
B. Bình luận về ý kiến : “Người gây ra thiệt hại cho xã hội
do sự kiện bất ngờ luôn được miễn trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong
việc gây ra thiệt hại đó”
I. Phân tích quy định của
pháp luật về sự kiện bất khả kháng. (Điều 11 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009)
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do
sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy
trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Sự kiện bất ngờ là trường hợp đã gây ra hậu
quả thiệt hại cho xã hội nhưng hành vi gây thiệt hại đó không phải chịu TNHS vì
họ không buộc phải thấy trước hoặc không thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình, tức là họ không có lỗi. Ví dụ: A đang điều khiển xe máy có một cành
cây rơi trúng đầu làm A mất tay lái, gây tai nạn cho B đang đi xe bên cạnh, B bị
ngã đập đầu xuống đường, trấn thương 30%. Trong tình huống này, A không có lỗi
trong việc gây thiệt hại cho B vì sự kiện cành cây rụng được coi là sự kiện bất ngờ, do đó, A không phải chịu TNHS.
Một người có hành vi nguy hiểm
cho xã hội, gây hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội do sự kiện bất ngờ thuộc một trong hai trường hợp sau:
a) Không
thể thấy trước hậu quả của hành vi:
Không thể thấy trước được hậu
quả của hành vi là trước khi thực hiện hành vi (hành động hoặc không
hành động) người có hành vi không nhân thức được hành vi của mình gây
hậu quả, sự nhận tức này của họ có cơ sở khoa học và được mọi
người thừa nhận, ai trong hoàn cảnh này đều không thể thấy trước hậu
quả sẽ xảy ra, nhưng thực tế hậu quả lại xảy ra. Việc giải qyết mâu
thuẫn giữa
hậu quả tất yếu xảy ra với nhận
thức của người có hành vi gây hậu quả đó không phải bao giờ cũng dễ
dàng.
Thông thường người có hành vi
gây ra hậu quả cho rằng mình không thể thấy trước hậu quả, còn người
bị thiệt hại thì lại cho rằng người có hành vi có thể thấy trước
hậu quả những vẫn hành động. Vì vậy, khi đánh giá một người có
hành vi gây hậu quả có thấy trước được hậu quả của hành vi hay không
phải căn cứ vào điều kiện khách quan và chủ quan khi xảy ra sự việc.
Về khách quan, trong hoàn cảnh cụ thể đó, bất kỳ ai cũng không thể
thấy trước được hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm, còn
về chủ quan phải xem xét các đặc điểm về nhân thân của người có
hành vi gây ra hậu quả như: tuổi, trình độ hiểu biết, bệnh tật vàn
hững đặc điểm nhân thân khác có ảnh hưởng đến nhận thức của họ. Ví
dụ: Một người đẩy mạnh cửa sổ của nhà mình ra để hóng mát nhưng ở
phía bên ngoài cửa sổ có một cậu bé đang đứng bắt tổ chim, làm cho
cậu bé này ngã xuống đất, đập đầu vào hòn gạch nên chết.
b)
Không buộc phải thấy trước:
Không buộc phải thấy trước là
tà tuy có khả năng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình, nhưng theo pháp luật không buộc họ phải thấy trước
hậu quả của hành vi và nếu có hậu quả xảy ra thì họ không phải
chịu trách nhiệm hình về hành vi nguy hiểm đó. Ví dụ: A đang điều khiển xe trên đường cao tốc theo đúng quy
định luật giao thông đường bộ
thì bất ngờ B băng qua đường ngay đầu xe A không xử lý kịp đã đâm vào người này làm cho họ
chết. Trong
tình huống này, khi để xe đâm vào
người băng qua đường, A có thể nhận thức được hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, nhưng
trong trường hợp này theo pháp luật thì không buộc họ phải thấy trước, nên
họ không có lỗi.
Lưu ý, Trường hợp sự kiện
bất ngờ và vô ý do cẩu thả có điểm giống và khác nhau. Ở cả hai trường hợp, chủ
thể thực hiện đều không thấy trước hoặc không thể thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của hành vi mà mình đã gây ra. Điểm khác nhau ở đây là: Trường hợp
vô ý vì cẩu thả, Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của hành vi, việc họ gây thiệt hại là do họ có lỗi cẩu thả. Còn
trong sự kiện bất ngờ, chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy
hiểm của hành vi hoặc tuy có nghĩa vụ nhưng không đủ điều kiện để thấy trước hậu
quả đó, hành vi gây thiệt hại là do khách quan.
Khi đặt vấn đề không buộc người
gây thiệt hại phải thấy trước hành vi của mình gây ra hậu quả không
chỉ căn cứ vào các văn bản pháp luật cụ thể nào của Nhà nước quy
định về việc không buộc, mà còn phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra sự
việc, trình độ nhận thức của người gây thiệt hại và các tình tiết
khác. Thông
thường, nếu mọi người nói chung rơi vào hoàn cảnh đó thì cũng không
thấy được hậu quả xảy ra, thì người gây thiệt hại cũng được công
nhận là gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ.
Sự
kiện bất ngờ là trường hợp không có lỗi, nhưng không vì thế mà cho
rằng tất cả những trường hợp không có lỗi đều là sự kiện bất ngờ.
Cần
phải phân biệt sự kiện bất ngờ với trường hợp tình trạng không thể khắc phục được.
Đó là trường hợp chủ thể không có cách nào ngăn được hậu quả nguy hiểm cho xã hội
mà họ đã thấy trước [3]
II. Phân tích, đánh giá ý kiến.
Như đã phân tích rất kỹ
về quy định của pháp luật về sự kiện bất ngờ ở trên thì: Sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi nguy
hại cho xã hội trinh trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc
thấy trước tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng
như hậu quả của hành vi đó, tức là người có hành vi nguy hiểm không
có lỗi trong việc gây ra hậu quả
hoặc đe dọa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Không có lỗi cũng
tức là hành vi của họ không cấu thành tội phạm (thiếu dấu hiệu
thuộc mặt chủ quan của CTTP). Do đó, ý kiến cho rằng người gây thiệt
hại cho xã hôi trong sự kiện bất ngờ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại
đó là hoàn toàn chính xác.
Tuy nhiên, ý kiến lại
khẳng định người gây thiệt hại trong sự kiện bất ngờ luôn được “miễn trách nhiệm
hình sự” là sai, Bởi lẽ, Pháp luật đã quy định họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự. Hai thuật ngữ “ Miễn trách nhiệm
hình sự’ và “không phải chịu trách nhiệm hình sự” không đồng nhất với nhau, cần
phân biệt, xác định thận trọng, chính xác.
Trách nhiệm hình sự được
hiểu là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi
về hành vi phạm tội của mình”. Theo Điều 2 BLHS năm 1999 thì “chỉ người nào phạm
một tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS”. Để kết luận hành
vi đó có phải là tội phạm hay không, tội đó là tội gì và hậu quả pháp lý bất lợi
đặt ra là gì cần phải xem xét hành vi đó có thảo mãn các dấu hiệu của CTTP cụ
thể hay không. Khi thỏa mãn các dấu hiệu bắt buộc trong CTTP cụ thể thì người
đó đã thực hiện tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS và phải chịu TNHS[4].
Theo đó, không phải chịu
trách nhiệm hình sự tức là không phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi của
pháp luật hình sự về hành vi của mình vì họ không phải là người phạm tội. Hành
vi đó là hành vi không sai trái, không vi phạm pháp luật hình sự, hoặc chỉ đáng
xử lý về hành chính. Trong sự kiện bất ngờ, yếu tố không có lỗi đã loại trừ khả
năng người gây thiệt hại có thực hiện tội phạm. Do đó, vấn đề trách nhiệm hình
sự không được đặt ra đối với người gây thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ.
Miễn trách nhiệm hình sự
là người đã phạm tội quy định trong BLHS nhưng được miễn trách nhiệm hình sự. Tức
là người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn là người phạm tội nhưng Tòa án không
được quyết định bất cứ hình phạt nào, các biện pháp tư pháp nào khác nhưng vẫn
có thể quyết định việc bồi thường cho người bị thiệt hại và xử lý các vật chứng.
Người phạm tội được miễn TNHS vì những lý do sau: (1) do chuyển biến của tình
hình kinh tế-xã hộ nên hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa; (2) trước khi tội phạm bị phát giác người phạm tội đã tự thú,
khai rõ sự việc góp phần có hiệu quả và việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố
gắng hạn chế đến mức thấp nhất hiệu quả của tội phạm. (3) người phạm tội được
hưởng quyết định đại xá. Như vậy, bản thân hành vi của người được miễn trách
nhiệm hình sự là vi phạm quy định của pháp luật hình sự.
Do đó, ý kiến trên là sai vì người gây thiệt hại
do sự kiện bất ngờ không phải chịu TNHS chứ không phải là miễn trách nhiệm hình
sự.
III.Đề xuất hướng sửa đổi.
Căn cứ những phân tích, đánh giá như
trên, em xin đề xuất ý kiến sửa đổi ý kiến trên như sau: “ Người gây thiệt hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không phải chịu
trách nhiệm hình sự vì họ không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó”-phần
gạch chân là nội dung sửa đổi. Khẳng định như vậy sẽ thể hiện được bản chất của
sự kiện bất ngờ. Đối chiếu với quy định của BLHS (Điều 11) có thể thấy rằng :
trường hợp không có thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu của hành
vi suy cho cùng cũng là không có lỗi. Cho nên, Điều 11 BLHS cần nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung theo hướng:
-
Cần ghi nhận trực tiếp trường hợp một người thưc hiện hành vi gây hậu quả nguy
hại cho xã hội trong trường hợp không thấy hoặc không buộc phải thấy trước hậu
quả của hành vi đó, thì không có lỗi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự:
-
Để tránh lập lại về kỹ thuật lập pháp cần thay cụm từ sự kiện bất ngờ trong nội
dung điều luật bằng cụm từ không có lỗi để phản ánh chính xác trường hợp này.
-
Để tránh việc áp dụng không thống nhất pháp luật, đồng thời tránh làm oan sai
người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm đòi hỏi cần quy định cụm từ “ rõ ràng” trước nội dung “ không thể thấy trước hoặc không buộc phải
thấy trước hậu quả của hành vi đó…” nhằm xác định rõ ràng trường hợp sự kiện
bất ngờ (không có lỗi) với các trường hợp có lỗi trong Bộ luật hình sự (cố ý hoặc
vô ý)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét