MỞ ĐẦU
Chính phủ đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Chính phủ đặt ra các quy định,
luật lệ kiểm soát giá, đánh thuế, hay có các chính sách thu mua, hỗ trợ giá,…
can thiệp vào nền kinh tế thị trường nhằm hướng tới sự công bằng trong phân
phối và hiệu quả phân bổ. Việt Nam có nền văn minh lúa nước lâu đời là một
trong những nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu trên thế giới. Sản xuất lúa gạo
nước ta góp phần đảm bảo an an ninh lương thực quốc gia và thế giới. Chính phủ
đã có những chính sách can thiệp vào thị trường lúa gạo để bảo vệ lợi ích và
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nông dân, phát triển bền vững nền nông
nghiệp quốc gia. Theo đó, chính phủ đã quy định mức giá sàn cho mặt hàng thóc –
mặt hàng luôn gắn liền với người nông dân. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em đã
chọn đề: “ Phân tích tác động của việc Chính phủ quy định giá sàn đối với mặt
hàng thóc ở nước ta hiện nay. Minh họa bằng đồ thi.”
NỘI DUNG
I.Cơ sở lí luận.
1. Cầu, cung và sự cân bằng của thị
trường.
Cầu (hành vi của người mua) là số lượng hàng hóa mà
người mua muốn mua tại mỗi mức giá chấp
nhận được. Cầu là sự mô tả đầy đủ của tất cả các mức sản lượng mà người mua
muốn mua tại mỗi và mọi mức giá có thể thanh toán được. Lượng cầu là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người mua có khả năng
mua ở một mức giá cụ thể. Nếu những yếu tố khác là không đổi, giá càng thấp
lượng cầu càng cao. Đường cầu là
đường dốc xuống.
Cung (hành
vi của người bán) là số lượng hàng háo mà người bán muốn bán tại mỗi mức giá
chấp có thể. Cung không phải là một mức sản lượng cụ thể mà là toàn bộ sự mô tả
về sản lượng mà người bán muốn bán tại mỗi mức giá. Lượng cung là số lượng hàng hóa, dịch vụ mà người bán sẵn sàng bán
tại một mức giá cụ thể. Nếu những yếu tố khác là không đổi, giá càng cao lượng
cung càng cao. Đường cung là đường
dốc lên.
Thị
trường bán hết hàng hay ở trạng thái cân bằng, khi mức giá khiến lượng cung
bằng lượng cầu. Tại điểm đó đường cung và đường cầu giao nhau. Đó là mức giá
cân bằng của thị trường. Tại mức giá thấp hơn giá cân bằng sẽ có hiện tượng dư
cầu (thiếu hụt) và nó sẽ có xu hướng làm tăng giá. Tại mức giá cao hơn giá cân
bằng sẽ có hiện tượng dư cung (dư thừa) và tự nó sẽ có xu hướng làm giảm giá.
Trên thị trường tự do, việc lệch khỏi vị trí cân bằng sẽ có xu hướng tự điều
chỉnh.
Như vậy, thị trường là sự dàn xếp giữa người bán và người mua trong trao đổi
hàng hóa và dịch vụ. Thị trường thực
hiện chức năng kinh tế đó là xác định giá cả để đảm bảo rằng sản lượng người ta
muốn mua bằng sản lượng người ta muốn bán.
2. Chính phủ đặt mức giá sàn.
Chính phủ can thiệp vào thị trường để
làm thay đổi giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ (cản trở sự cân bằng của thị
trường) trực tiếp thông qua việc ấn định giá trần (giá cao nhất) hay giá sàn
(giá thấp nhất). Với mục đích là phân phối lại phúc lợi xã hội nhưng sự can
thiệp của Chính phủ đã dẫn đến hiện tượng khan hiếm hay dư thừa hàng hóa, dịch
vụ gây ra sự “méo mó” cho thị trường.
Xem xét sự kiểm soát giá qua việc
Chính phủ đặt mức giá sàn, theo luật giá cả không thể giảm dưới mức giá tối
thiểu này. Ví dụ như các quy định về mức lương tối thiểu quốc gia. Nhiệm vụ của
giá sàn là tăng giá cho người cung cấp. Chính phủ áp đặt giá sàn cao hơn mức
giá cân bằng của thị trường để bảo vệ người sản xuất. Khi đó, các nhà cung cấp
bán hàng ra thị trường nhiều hơn, nhưng vì giá cao người tiêu dùng lại muốn mua
ít hơn làm xuất hiện tình trạng dư thừa trên thị trường. Để giải quyết tình
trạng này, Chính phủ áp dụng thu mua, dự trữ, khuyến khích xuất khẩu,…
Chính phủ áp đặt giá sàn Ps cao hơn mức giá cân bằng Po . Tại giá sàn Ps, lượng cung là Qs nhưng lượng cầu là QD nghĩa là chỉ có lượng cầu QD được giao dịch. Bằng cách mua lượng dư cung AB nhà cung cấp làm hài lòng cả nhà cung cấp và người tiêu dùng tại mức giá Ps. |
II. Tác động của Chính phủ quy định giá sàn đối với mặt hàng
thóc ở nước ta hiện nay.
1. Tình hình thị trường mặt hàng thóc ở
nước ta hiện nay.
Vụ Đông
xuân năm 2012 – 2013 lúa được mùa, lượng cung ra thị trường là rất lớn. Người
nông dân rất hoang mang trước bài toán kinh tế “được mùa thì rớt giá, mất mùa
thì được giá”. Riêng địa bàn tỉnh Long
An với sản lượng ước tính là 1.623.108 tấn thóc với mức giá là 3.574 đồng/kg,
giảm 64 đồng/kg so với vụ đông xuân năm 2011 – 2012. Đến ngày 07/3/2013, các tỉnh thành phố vùng ĐBSCL đã thu
hoạch được 700 ngàn ha, năng suất đạt 6,6 tấn/ha, tương đương sản lượng lúa đã
thu hoạch của vụ Đông Xuân 2012 – 2013 là 4,6 triệu tấn. Theo dự báo trong hội
nghị sơ kết sản xuất vụ Đông Xuân 2012 –
2013 ở Nam Bộ, Nam Bộ sẽ thu hoạch toàn bộ diện tích lúa vào giữa tháng 4 với
sản lượng ước tính lên tới 11 triệu 350 nghìn tấn thóc.
Cung tăng nhưng cầu lại không tăng. Thị trường
xuất khẩu lúa gạo năm nay sẽ tiếp tục chịu nhiều sức ép như cạnh tranh thị
trường, giá cả,… do nhu cầu của thị trường yếu cùng với nguồn cung từ Thái Lan
và Ấn Độ rất dồi dào. Năm nay, Việt Nam đã ký hợp đồng hơn 1 triệu tấn gạo,
tính cả hợp đồng năm 2012 là 1,5 triệu tấn gạo tương đương với 3 trệu tấn thóc
sẽ được xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của nước ta là Châu phi sẽ
chưa vội nhập khẩu them vì vào cuối năm 2012, Châu phi đã nhập khẩu mạnh.

Nguồn: Số liệu bình quân
tính trên số gốc của VFA.
Nhìn vào biểu đồ biến động giá lúa 1 năm, giá lúa
thường cao nhất khoảng 6.050 đồng/kg, thấp nhất là 4.700 đồng/kg; giá lúa dài
cao nhất khoảng 6.225 đồng/kg, thấp nhất khoảng 5.050 đồng/kg, chênh lệch
khoảng 23-28,7% giữa giá cao nhất và thấp nhất. Tuy nhiên, giá lúa được giữ khá ổn
định khi vào mùa vụ, và cả trong khoảng thời gian có chính sách hỗ trợ thu mua
của Chính phủ.
Theo các chuyên gia đánh giá, năm
2013 sẽ là một năm tiếp tục khó khăn, đặc biệt lúa gạo là lĩnh vực giảm sút
mạnh.
2. Một số tác động.
Chính phủ quy định giá sàn cho mặt
hàng thóc nhằm bảo vệ lợi ích của người nông dân, đảm bảo cân đối lợi ích giữa
doanh nghiệp và người dân. Việc quy định mức giá sàn đã làm cho mặt hàng thóc
trên thị trường bị dư thừa (cung lớn hơn cầu). Vì vậy Chính phủ đã tiếp tục
thực hiện chính sách thu mua thóc, hỗ trợ lãi xuất 0% cho các doanh nghiệp nhằm
làm hài lòng cả doanh nghiệp và người trồng lúa. Trong 4 tháng đầu năm nay, chính sách mua tạm trữ lúa gạo của Chính phủ
do các doanh nghiệp Hiệp hội Lương thực việt Nam (VFA) trực tiếp thực hiện với
mức giá sàn là 5000 đồng/kg thóc cũng
đã góp phần làm ổn định giá lúa gạo trên thị trường. Với mục tiêu là đảm bảo
30% lơị ích cho người dân trồng lúa, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đưa ra con số giá lúa khô
(loại thường) thu mua dao động từ 5.150 – 5.250 đồng/kg, lúa dài khoảng 5.350 –
5.450 đồng/kg. Theo đó, giá bình quân lúa tươi ngoài đồng tăng từ 150 - 200
đồng/kg, đạt 4.400 đồng/kg đối với
lúa thường, 4.600 - 5.300 đồng/kg đối
với lúa chất lượng cao, lúa thơm. Đối
chiếu với giá thành bình quân sản xuất mỗi kg lúa (vụ Đông Xuân) tại ĐBSCL do
Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đưa ra là 3.616 đồng. Nếu bán lúa thường tại thời
điểm này với giá thấp, nông dân thu lãi 29,7%, bán lúa dài thì thu lãi 32,4%.
Đây là con số do các doanh nghiệp cơ quan đưa ra còn trên thực tế lại hoàn toàn
khác. Mức giá sàn được chính phủ quy định rất mù mờ, cũng như những thông tin
về chính sách mua tạm trữ lúa gạo do chính phủ đề ra không đến được với người
trồng lúa. Sau khi thu hoạch xong, người nông dân chờ mãi không thấy doanh
nghiệp đến mua đành phải bán cho thương lái nhưng bị ép giá, phải bán với giá
thấp. Người chịu thiệt vẫn là người nông dân. Cụ thể, đến chiều ngày 28 – 3,
nhiều donh nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long cơ bản đã hoàn thành chỉ tiêu mua
tạm trữ 1 triệu tấn gạo. Tuy nhiên giá lúa không tăng như người trồng lúa mong
đợi, giá lúa IR50404 được thương lái mua từ 5.000 – 5.100 đồng/kg, lúa dài từ
5.200 – 5.300 đồng/kg, luá Jasmine khoảng 5.600 – 5.700 đ/kg,… Đấy là mức giá
người nông dân lời rất thấp. Hơn nữa, sau khi chương trình mua tạm trữ
lúa gạo, giá thóc lại tiếp tục giảm. Quy luật thị trường lại tác động trực tiếp
tới giá bán của người nông dân, họ buộc phải bán đổ bán tháo vì không đủ sức
cạnh tranh, giữ hàng tồn kho, không có
đủ tiền để xoay xở cuộc sống cũng như đầu tư vốn cho vụ hè - thu tiếp theo.
Điều này có thể dẫn đến việc người trồng lúa bỏ ruộng chuyển sang lĩnh vực
khác.
3. Một số hạn chế trong việc Chính phủ quy
định giá sàn đối với mặt hàng thóc hiện nay.
Mức giá sàn
của Chính phủ đặt ra đã không phù hợp với thực tế, chưa bảo vệ được lợi ích của
người dân trồng lúa vì trên thực tế họ đã phải bán thóc với mức giá thấp hơn,
nhiều người còn bị lỗ. Thời điểm thực hiện thu mua chưa hợp lý. Điều này dẫn đến hiện tượng cung vượt quá cầu chưa được
giải quyết, và người chịu thiệt vẫn chính là người sản xuất – chính là người
nông dân. Đặc biệt, số lượng thu mua bị khống chế, không đáp ứng được
yêu cầu của thị trường. Sau khi kết thúc đợt thu mua, lượng thóc tồn đọng trong
dân còn quá lớn. Cùng với đó, những thông tin về giá sàn hay những chính sách
của chính phủ chư đến tay người nông dân gây ra hiện tượng dân không bán trực
tiếp cho các doanh nghiệp mà toàn thông qua Thương lái với mức giá bèo bọt. Theo nội dung của chương trình thu mua tạm trữ, doanh
nghiệp được hỗ trợ lãi suất 0% vốn vay để thu mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo, tạo
điều kiện cho người nông dân xoay xở đồng vốn và trang trải cuộc sống. Tuy
nhiên, dường như những quy định về nghĩa vụ đi kèm với “quyền lợi 0%” chưa được
rõ ràng, thiếu tính minh bạch để nông dân nắm bắt ứng xử.
Như vậy, có thể thấy rằng thời điểm thu mua, giá sàn và số lượng thu
mua hạn chế và công tác thông tin chưa sát với điều kiện thực tế nên chính sách
này vẫn chưa tạo hiệu quả thiết thực cho người nông dân hưởng lợi từ sản xuất
nông nghiệp.
4. Một số
giải pháp trong việc quy định mức giá sàn mặt hàng thóc hiện nay.
Chính
phủ cần xem xét kỹ lưỡng đưa ra mức giá sàn phù hợp với thực tế. Mỗi một loại
thóc khác nhau phải có mức giá sàn khác nhau. Đặc biệt là việc triển khai thực
hiện. Hiệp hội lương thực Việt Nam, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần
phối hợp chặt chẽ, tiến hành các chính sách của Chính phủ trực tiếp tới người
dân . Cần cung cấp đầy đủ thông tin về các mức giá sàn đối với từng loại thóc
để mọ người cùng biết và thực hiện, đảm bảo tính công khai, minh bạch, phục vụ
cho lợi ích của toàn dân.
Thay vì
những chính sách hỗ trợ lãi 0% cho các doanh nghiệp mua tạm trữ, Chính phủ nên
hỗ trợ trực tiếp cho người nông dân bằng các mô hình hiệu quả như mô hình “cánh
đồng mẫu lớn”.
Minh họa
bằng đồ thị
Theo điều tra ta có biểu cung, cầu
đối với mặt hàng thóc trong 4 tháng đầu năm 2013 như sau:
Giá
(nghìn đồng/kg)
|
7
|
6
|
5
|
4
|
2
|
3
|
Lượng cầu
(tấn)
|
20
|
40
|
60
|
80
|
120
|
100
|
Lượng cung
(tấn)
|
140
|
120
|
100
|
80
|
40
|
60
|
Ta có phương trình đường cầu là: PD
= - 0,05QD + 8
Phương trình đường cung là: PS=
0,05 Qs
Như vậy mức giá cân bằng của thị
trường thóc là Po = 4 nghìn đồng/kg
với mức sản lượng cân bằng là Qo=80 tấn thóc. Khi giá sàn PD = 5
nghìn đồng/kg thì lượng cung QS= 100 tấn thóc trong khi lượng cầu QD= 60 tấn thóc.
khi Chính phủ áp đặt giá sàn Ps =
5000 đồng/kg và mua lại hết hàng dư thừa:
Các doanh nghiệp bị thiệt hại do
chính sách này là (diện tích hình thang (A+B)):
½(Ps-Po).(QD+QO) = ½.(5-4).(60+80).1000=70.000
(nghìn đồng)=70 triệu đồng
Người trồng lúa được hưởng lợi từ
chính sách này là (diện tích hình thang (A+B+I)): ½.(Qo+Qs).(Ps-Po) =
½.(80+100).1000.(5-4) = 90.000 nghìn đồng= 90 triệu đồng.
Chi phí Chính phủ mua hàng dư thừa là Ps.(Qs-Q)=5.(100-60).1000=200.000
nghìn đồng = 200 triệu đồng.
KẾT LUẬN
Tóm lại, việc Chính phủ quy định đến
mức giá sàn đối với mặt hàng thóc ở Việt Nam hiện nay cũng đã có những tác động
tích cực đến nền nông nghiệp Việt Nam, góp phần ổn định thị trường lúa gạo
trong nước, bảo vệ phần nào lợi ích của người nông dân. Tuy nhiên vẫn còn có
những điểm hạn chế như đã phân tích ở trên, người nông dân vẫn được đảm bảo lợi
ích như mục tiêu mà chính phủ đề ra. Vì vậy Chính phủ cần có cơ chế phù hợp để
lợi ích trực tiếp tới người trồng lúa, đảm bảo tính công khai minh bạch để khắc
phục hiện tượng “đục nước béo cò” của một số thương lái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét