Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Một số vấn đề về vai trò, mục đích, ý nghĩa của Thuế môi trường và bình luận về Luật thuế bảo vệ môi trường

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, con người đã và đang hàng ngày hàng giờ tác động đến môi trường xung quanh. Một cách khái quát, môi trường được hiểu là toàn bộ “các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. Sự tác động của con người đến môi trường không chỉ là việc sử dụng các thành phần môi trường để tạo ra của cải vật chất, mà chính quá trình tạo ra và sử dụng của cải vật chất cũng tác động đến môi trường thông việc xả chất thải, gây tiếng ồn, làm mất cân bằng các thành phần môi trường, v.v..
Nhiều quốc gia đã nhận thức được tầm quan trọng của môi trường đối với quá trình phát triển kinh tế cũng như sự tồn tại của chính bản thân con người. Chính vì vậy, mô hình phát triển bền vững đã ra đời và được nhiều quốc gia đón nhận, theo đó, việc phát triển kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Ở Việt Nam, khái niệm phát triển bền vững đã được ghi nhận như sau: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”[1]. Chính vì vậy em chọn đề tài : “Một số vấn đề về vai trò, mục đích, ý nghĩa của Thuế môi trường và bình luận về Luật thuế bảo vệ môi trường” để thấy được chủ trương chính sách của Đảng ta về vấn đề bảo vệ môi trường thông qua sắc luật thuế.












NỘI DUNG
I.  Vai trò, mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường.
Nền móng của thuế môi trường chính là thuế bảo vệ môi trường được Giáo sư Arthur C.Pigou (1877-1959) của Trường đại học Cambridge từ 1908-1944 đưa ra trong tác phẩm “Kinh tế học phúc lợi” từ những năm 1920. Theo Giáo sư Pigou thuế môi trường là một công cụ tương đối đơn giản vì mức thuế tối ưu chính bằng với mức chi phí xử lý ô nhiễm của doanh nghiệp. Theo đó, nguyên tắc đánh thuế môi trường được xác định là: “Mức thuế ô nhiễm (mức thuế môi trường) tính cho mỗi đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm có giá trị bằng chi phí ngoại ứng do đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm gây ra tại mức sản lượng tối ưu xã hội”. Cơ quan thống kê châu Âu (EURROSTAT) thì đưa ra một định nghĩa về thuế môi trường theo cách tiếp cận thống kê như sau: “Một loại thuế được xếp vào loại thuế môi trường nếu căn cứ tính thuế là một đơn vị vật chất (hoặc đại diện cho nó) của một vật gì đó đã được chứng minh sẽ gây ra một tác động có hại đặc biệt đến môi trường”. [2]
Bên cạnh các định nghĩa về thuế môi trường trên thế giới, Luật thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010 cũng đưa ra một định nghĩa ngắn gọn và dễ hiểu về thuế môi trường như sau: “Thuế bảo vệ môi trường là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường”. Tuy ngắn gọn nhưng định nghĩa trên đã nêu được những điểm cơ bản về thuế môi trường như phương pháp đánh thuế (gián thu), và đối tượng chịu thuế (sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường).
1.         Vai trò của thuế môi trường:
Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường với tốc độ phát triển nhanh chóng về các mặt kinh tế xã hội. Bên cạnh những thành tựu, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó có sự tác động tiêu cực đến môi trường sống. Ô nhiễm môi trường có nguyên nhân từ hoạt động khai thác không hợp lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển không cân đối và thiếu quy hoạch đồng bộ. Nguy cơ ô nhiễm môi trường còn là mặt trái của quá trình hội nhập, khi Việt Nam có thể trở thành bãi thải công nghệ và các sản phẩm ô nhiễm từ các quốc gia khác.Nên việc ban hành thuế môi trường là hết sức cần thiết và có một vai trò quan trọng. Cụ thể, vai trò của thuế môi trường cụ thể như:
Thuế môi trường góp phần tăng cường trách nhiệm và nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường. Thuế môi trường là loại thuế thực hiện theo nguyên tắc“người gây ô nhiễm trả” nên nú buộc các chủ thể gây ô nhiễm và các liên đới phải chịu trách nhiệm về chi phí do hoạt động gây ô nhiễm của họ bằng cách đưa chi phí ngoại ứng vào giá.Với việc sẽ đưa chi phí ngoại ứng vào giá “nội hoá các chi phí ngoại ứng” nhờ đó chi phí xã hội và chi phí cá nhân của các nhà sản xuất tiến gần nhau hơn. Các mức giá trở nên chính xác hơn, do đó bao gồm đầy đủ các yếu tố cần thiết. Từ đó, tạo cơ hội thúc đẩy các hoạt động có hiệu quả hơn đối với các khu vực thị trường, giao thông hoặc năng lượng. Nội hoá các chi phí ngoại ứng cũng sẽ dẫn đến phân bổ lại nguồn lực của nền kinh tế theo hướng tạo ra các“mức giá công bằng và hiệu quả hơn” do phân phối lại chi phí.
Thuế môi trường khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hoá thân thiện với môi trường hơn. Có thể sử dụng thuế để kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo hướng bảo vệ môi trường. Đối với cả người tiêu dùng (muốn mua với giá thấp hơn) và nhà sản xuất (bán được nhiều sản phẩm hơn, lợi nhuận cao hơn) thì thuế môi trường sẽ có nhiều tác dụng khuyến khích, điều chỉnh định hướng sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường hơn.
Thuế môi trường thúc đẩy cải cách đổi mới công nghệ. Bởi nếu đánh thuế môi trường mà giá nhiên liệu tăng thì điều này sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Điều đó có thể dẫn tới việc ra đời của các công nghệ, chu trình và sản phẩm mới. Rõ ràng thuế môi trường có thể giúp chuyển dịch nền kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả đối với các loại năng lượng và nguồn lực bằng việc tăng giá sản phẩm tự nhiên. Thuế môi trường có tác động làm thay đổi cả quy mô và cơ cấu của sản xuất và tiêu dùng. Đặc biệt, khi các dấu hiệu về giá được dự báo dần dần vượt qua mức giá dự kiến trong kế hoạch dài hạn của nền công nghiệp.
Thuế môi trường góp phần bổ sung nguồn vốn để đầu tư cải tạo môi trường. Với khung thuế suất được quy định tại dự ỏn Luật, nếu lấy mức thuế tối thiểu của khung thì số thu mỗi năm khoảng 14. 300 tỷ đồng nếu lấy mức thuế suất tối đa của khung thì số thu mỗi năm khoảng 57. 000 tỷ đồng.Cụ thể, mặt hàng xăng sẽ chịu mức thuế từ 1.000 - 4.000 đồng/lít, nhiên liệu bay 1.000 - 3.000 đồng/lít, dầu diesel, dầu hỏa từ 300 - 2.000 đồng/lít; dầu mazut từ 300 - 2.000
nhựa xốp 20.000 – 30.000 đồng/kg, thuốc bảo vệ thực vật hạn chế sử dụng từ 500 - 5.000 đồng/kg. Như vậy, thuế mang lại nguồn thu nhất định cho ngân sách để đầu tư cải tạo môi trường.
Thuế môi trường góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trườngThuế môi trường góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm; khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế hoặc hạn chế tiêu dùng sản phẩm (xăng, dầu, than,..). Từ đó, tiết kiệm cá nhân, tiết kiệm xã hội, giảm ô nhiờm môi trường, giảm chi phí xử lý ô nhiễm. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng đến môi trường, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái về môi trường. Thay đổi nhận thức của người dân về về vai trò của môi trường là mục tiêu lớn nhất mà các chính sách hướng tới.
Thuế môi trường góp phần bảo vệ môi trường. Thuế môi trường góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực đến môi trường (khí Carbon, lưu huỳnh thải ra khi sử dụng xăng, dầu, than, HCFC ảnh hưởng tới môi trường không khí và tầng ụzụn, tăng hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, gây hậu quả nghiêm trọng đối với con người và thiên nhiên cũng như tổn thất về kinh tế). Từ đó, hướng tới nền kinh tế phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
2.         Mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường:
Từ vai trò quan trọng của thuế môi trường, ta thấy việc ban hành thuê môi trường có những mục đích, ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo vệ môi trường:
Thuế môi trường tạo một hành lang phỏp lý đồng bộ, ổn định, điều chỉnh toàn diện các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường, để điều chỉnh trực tiếp hành vi của các chủ thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp gây ô nhiễm môi trường và nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, chống chuyển dịch công nghệ bẩn vào Việt Nam, đồng thời tạo lập và sử dụng nguồn kinh phí trực tiếp đó để đầu tư xây dựng các biện pháp cải thiện môi trường, chi phí cho việc bảo vệ môi trường, tuyên truyền tác động đến ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường.
Thuế môi trường với mục đích chính là khuyến khích phát triển kinh tế đi liền với giảm ô nhiễm môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, nâng cao chṍt lượng cuộc sụ́ng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của xã hội, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi của người dân và doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu dùng nhằm giảm phát thải. Nâng cao nhận thức của các tầng lớp trong xã hội về ý thức bảo vệ môi trường, từ đó góp phần thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm môi trường khi sử dụng phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và những năm tới.
Nhằm góp phần thay đổi công nghệ sản xuất, khuyến khích những nơi sản xuất theo công nghệ tốt hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn cho môi trường. Việc đánh thuế môi trường góp phần kích thích chủ thể sản xuất lựa chọn công nghệ sản xuất ít gây ô nhiễm để giảm thuế môi trường và tăng sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường.
Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi nhận thức, hành vi của tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng nhằm giảm phát thải ô nhiễm tại nguồn. Việc ban hành thuế môi trường là công cụ thây đổi thói quen tiêu dùng “xa xỉ” của người dõn, giúp người dân ý thức hơn trong việc lựa chọn sản phẩm tiêu dựng
Tăng cường quản lý nhà nước, thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với các qui định của Hiến pháp, tính thống nhất và đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan khác; thực hiện cam kết của Chính phủ với cộng đồng quốc tế trong việc góp sức giải quyết vấn đề môi trường toàn cầu. Luật thuế môi trường là một trong những sắc thuế cần được xây dựng để hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta đến năm 2010 với mục tiêu đánh thuế vào các đối tượng gây ô nhiễm môi trường nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, nhằm góp phần thay đổi nhận thức của con người đối với môi trường, tạo thêm nguồn lực để khôi phục môi trường sinh thái.
Nhằm động viên hợp lý đóng góp của xã hội, tạo thêm nguồn thu để giải quyết vấn đề môi trường, đồng thời phải đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm chủ yếu của Việt Nam.   
 Ta có thể so sánh thuế môi trường với phí môi trường để thấy rõ vai trò, mục đích cũng như ý nghĩa của nó.
Thuế môi trường có nhiều ưu điểm so với phí môi trường. Thứ nhất, so với phí thì thuế môi trường là khoản thu được Quốc hội ban hành nên có tính pháp lý cao hơn. Thứ hai, thuế môi trường có khả năng tạo nguồn thu phổ quát hơn so với từng loại phí chuyên biệt, đồng thời đảm bảo nguồn thu đủ lớn, không những đáp ứng được việc phòng, chống, khắc phục ô nhiễm môi trường mà còn dùng để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Thứ ba, thuế môi trường là loại thuế được người dân ủng hộ hơn so với một số loại thuế khác, không chỉ vì mục tiêu của nó là bảo vệ môi trường là điều mà ai cũng cảm thấy cần thiết, mà còn ở lý do thu thuế được dựa vào “hành vi xấu” là việc gây ô nhiễm môi trường, chứ không phải dựa vào “hành vi tốt” như sản xuất, kinh doanh hoặc tạo thu nhập.[4] Và cuối cùng, thuế môi trường sẽ góp phần định hướng hành vi xã hội theo hướng gìn giữ hiệu quả các thành phần môi trường cũng như sử dụng tiết kiệm, hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Bên cạnh những ưu điểm, thuế môi trường cũng có những tác động trái chiều nhất định đối với nền kinh tế. Thuế môi trường sẽ có tác động đến giá bán, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ. Trong giai đoạn kinh tế hội nhập như hiện nay, nhiều quốc gia đang phát triển cũng chưa quan tâm đúng mức đến thuế môi trường, nên hàng hoá có chi phí thuế môi trường sẽ sụt giảm khả năng cạnh tranh với hàng hoá có xuất xứ từ những quốc gia không thu thuế môi trường. Nếu quan tâm quá mức đến vấn đề môi trường, dẫn đến quá xem trọng vai trò của thuế môi trường thì sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.                        



[1] MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC BAN HÀNH LUẬT THUẾ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM- ThS. TRẦN VŨ HẢI
[2] Nghiên cứu về thuế môi trường và giải pháp nâng cao năng lực thanh tra thu ngân sách thuộc lĩnh vực môi trường- LÊ QUANG KIỆM (Thanh tra Tỉnh Đồng Nai)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét