KHẢ NĂNG VIỆT NAM THAM GIA CÔNG
ƯỚC VIÊN 1980
1. Những lợi ích của việc Việt Nam gia nhập CISG
Việc
gia nhập Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ đem lại cho
Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam những lợi ích đáng kể, bao gồm cả các lợi ích kinh
tế (đứng từ góc độ doanh nghiệp) và lợi ích về pháp lý (đứng từ góc độ của hệ
thống pháp luật và thực thi pháp luật).
a. Lợi ích đối với hệ thống pháp luật Việt Nam
- Thứ nhất, việc gia nhập
CISG sẽ giúp thống nhất pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới.
Với
tính chất là một văn bản thống nhất luật, Công ước Viên 1980 đã thống nhất hoá
được nhiều mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, đóng
vai trò quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại
quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Vì vậy, khi Việt Nam gia nhập CISG, Việt Nam
cũng sẽ được hưởng những lợi ích do văn bản thống nhất luật này mang lại, đó là
giảm bớt xung đột pháp luật trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, tạo khung
pháp luật thống nhất, hiện đại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, một lĩnh vực vẫn
luôn chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại quốc tế của Việt Nam .
Những
lợi ích này càng được nhấn mạnh khi hầu hết các cường quốc thương mại trên thế
giới đều đã gia nhập Công ước Viên, trong đó có rất nhiều quốc gia là bạn hàng
lớn và lâu dài của Việt Nam như các
quốc gia EU, Hoa Kỳ, Canada,
Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapo... Các công ty, doanh nghiệp của các nước này đã áp dụng và đã
quen áp dụng Công ước Viên cho các hợp đồng mua bán hàng hoá ký với các đối tác
nước ngoài và họ sẽ yên tâm hơn về nguồn luật áp dụng đối với các hợp đồng mua
bán hàng hóa ký với các đối tác Việt Nam
sau khi Việt Nam gia nhập Công ước
này.
- Thứ hai, việc gia nhập
CISG sẽ đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế
đa phương về thương mại, tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam .
Trên
thực tế, mức độ tham gia của Việt Nam
vào các Điều ước quốc tế đa phương quan trọng có ảnh hưởng đến thương mại đang ở
mức thấp, dưới mức trung bình của khu vực và trên toàn thế giới[1].
Nhiều chuyên gia nước ngoài cũng đã đưa ra khuyến nghị Việt Nam cần gia nhập Công ước Viên 1980 trong thời gian
sớm nhất, vì đây là một trong những công ước quốc tế đa phương có ảnh hưởng mạnh
mẽ đối với nền thương mại toàn cầu. Gia nhập Công ước Viên 1980 sẽ giúp tăng cường
mức độ của Việt Nam tham gia vào các
điều ước quốc tế đa phương về thương mại, từ đó cũng tăng cường mức độ hội nhập
của Việt Nam .
Các
quốc gia ASEAN, tại Diễn đàn Pháp luật ASEAN lần thứ ba[2] đã khuyến nghị các quốc gia gia nhập Công ước Viên
1980 nhằm hài hòa hóa pháp luật về mua bán hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN. Việc
Việt Nam và các quốc gia thành viên
ASEAN khác gia nhập Công ước này cũng sẽ giúp hài hòa hóa pháp luật về mua bán
hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng cộng đồng Kinh tế
ASEAN như đã hoạch định trong Hiến chương ASEAN.
- Thứ ba, việc gia nhập
CISG giúp hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng và pháp luật
về mua bán hàng hóa nói chung của Việt Nam .
Khi
Việt nam gia nhập CISG thì các điều khoản của Công ước này sẽ trở thành các quy
phạm của pháp luật Việt Nam áp dụng
cho các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế có liên quan. Đây là một cách thức
hiệu quả và ít tốn kém để hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế. Ngoài ra, tại các quốc gia thành viên
của Công ước Viên 1980, người ta nhận thấy rằng quá trình áp dụng Công ước có
tác động tích cực tới việc hoàn thiện pháp luật mua bán hàng hóa quốc gia[3]. Tại Việt Nam ,
trong quá trình soạn thảo Luật Thương mại năm 2005, các nhà làm luật đã tham khảo
các điều khoản của CISG. Khi Việt Nam
gia nhập CISG, sự ảnh hưởng của CISG đến việc hoàn thiện pháp luật về mua bán
hàng hóa quốc tế của Việt Nam sẽ
càng rõ nét và thuận lợi hơn nữa.
- Thứ tư, gia nhập Công ước
Viên 1980 cũng sẽ là điều kiện để việc giải quyết tranh chấp, nếu có, từ các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuận lợi hơn
Việt Nam là thành viên CISG,
việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến nhiều hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế bởi Tòa án hoặc trọng tài tại Việt Nam trở nên thống nhất và dễ dàng hơn, bởi với CISG
nguồn luật được giải thích và áp dụng thống nhất hơn. Với phạm vi áp dụng rộng
của CISG, các doanh nghiệp, trọng tài viên, thẩm phán có thể sẽ không cần xem
xét, nghiên cứu và cân nhắc bất kỳ nguồn luật nước ngoài nào khác ngoài CISG.
Việc giải thích và áp dụng CISG dễ dàng hơn rất nhiều so với việc viện dẫn đến
một hệ thống luật quốc gia, bởi việc diễn giải Công ước có thể sử dụng các nguồn
tham khảo phong phú và rất hữu ích, các Bình luận Chính thức của Ba n Tư vấn CISG,[4] các án lệ của CISG đăng tải
trên hệ thống dữ liệu của UNCITRAL, cũng như hàng ngàn bài viết học giả được
đăng tải trên trang web chuyên về CISG (PACE).
b. Lợi ích đối với các
doanh nghiệp Việt Nam
- Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập CISG, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiết kiệm được chi phí và tránh được các
tranh chấp trong việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng
Theo
Điều 1.1.a. của Công ước Viên 1980, Công ước này sẽ được áp dụng cho các hợp đồng
mua bán giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia thành viên, trừ khi
các bên thỏa thuận về việc không áp dụng Công ước này. Như vậy, khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Viên 1980, các
thương nhân Việt Nam và các đối tác
của họ tại 77 quốc gia khác trên thế giới (con số này sẽ tăng trong thời gian tới)
sẽ có một khung pháp lý thống nhất, được áp dụng một cách tự động cho hợp đồng
của mình. Các công ty, doanh nghiệp Việt Nam
khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhờ vậy, sẽ tránh được một vấn
đề luôn gây tranh cãi và khó khăn trong đàm phán, đó là vấn đề lựa chọn luật áp
dụng cho hợp đồng. Tránh được vấn đề này, các công ty, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những lợi ích sau đây:
+ Giảm
bớt chi phí và thời gian đàm phán để thống nhất lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
Đây là lợi ích lớn nhất khi các bên đã có một nguồn luật thống nhất để áp dụng.
Dù các bên trong hợp đồng không thỏa thuận gì về luật áp dụng thì Công ước Viên
1980 vẫn được tự động áp dụng cho hợp đồng mua bán giữa các bên.
+ Giảm
bớt các khó khăn và chi phí có thể phát sinh do luật được lựa chọn để áp dụng
cho hợp đồng là luật nước ngoài. Nếu phải áp dụng luật nước ngoài thương nhân Việt
Nam có thể mất thời gian để tự mình
tìm hiểu hoặc mất chi phí thuê tư vấn luật để tìm hiểu luật nước ngoài đó.
Ngoài ra, luôn tiềm ẩn những rủi ro pháp lý cho thương nhân Việt Nam do thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật nước ngoài
cũng như cách áp dụng luật nước ngoài. Trong khi đó, chi phí và thời gian để
tìm hiểu CISG là ít hơn rất nhiều so với luật quốc gia nước ngoài, vì các doanh
nghiệp/luật sư tư vấn có thể tham khảo rất dễ dàng (và miễn phí) các hệ thống
cơ sở dữ liệu vô cùng phong phú về CISG.
+ Tránh
được việc phải sử dụng đến quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định
luật áp dụng cho hợp đồng. Khi các bên trong hợp đồng không lựa chọn, hoặc
không thể lựa chọn được luật áp dụng cho hợp đồng, cơ quan giải quyết tranh chấp
(tòa án, trọng tài) dẫn chiếu đến quy phạm luật xung đột để chọn một nguồn luật
nhằm giải quyết tranh chấp có liên quan. Quy phạm luật xung đột thường là khác
nhau ở các quốc gia, vì thế, việc áp dụng các quy phạm này thường dẫn đến tính
khó dự đoán trước được về nguồn luật áp dụng, gây khó khăn đáng kể cho các bên
tranh chấp.
Đáng
lưu ý là CISG chỉ áp dụng nếu các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận khác.
Vì vậy, quyền tự do lựa chọn luật áp dụng của các bên vẫn là “toàn vẹn” và CISG
không áp đặt hay làm ảnh hưởng đến quyền tự quyết trong lựa chọn luật áp dụng của
các bên.
Cần
phải nhấn mạnh rằng, những lợi ích nói trên có ý nghĩa rất lớn đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Những
doanh nghiệp này ít có điều kiện tiếp cận các dịch vụ tư vấn pháp lý cũng như
có ít thế và lực trong vấn đề đàm phán lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng, vì
thế thường gặp nhiều rủi ro pháp lý liên quan đến vấn đề này. Những lợi ích do
một văn bản thống nhất luật như Công ước Viên 1980 đem lại cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ càng lớn thì chúng ta lại càng khẳng định những lợi ích mà Công ước
này đem lại cho Việt Nam , một quốc
gia với hơn 90% các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
- Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được một khung pháp lý hiện đại, công bằng
và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ hợp lý để
giải quyết tranh chấp nếu phát sinh, từ đó có điều kiện cạnh tranh công bằng
hơn trên trường quốc tế
Như
đã phân tích trong Phần I, Công ước Viên 1980, với 101 điều khoản, được đánh
giá là một nguồn luật hiện đại, phù hợp với thực tiễn kinh doanh quốc tế. Công
ước Viên 1980 đã đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết hầu hết mọi vấn đề pháp
lý có thể phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế: giá trị pháp lý, thời hạn hiệu lực của chào hàng, của chấp nhận
chào hàng; quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua; các biện pháp mà một bên
có được khi bên kia vi phạm hợp đồng…
Nếu
các bên giao kết hợp đồng trên một cơ sở luật chung thì sẽ dễ dàng đánh giá các
lựa chọn, chào giá khác nhau trên thị trường về rủi ro, độ chặt và nghĩa vụ
trong hợp đồng. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, mang lại lợi ích về mặt kinh tế không nhỏ. Ngoài ra, theo đánh giá
của các luật gia và các chuyên gia về luật hợp đồng thương mại quốc tế, các điều
khoản của Công ước Viên 1980 còn tạo được sự bình đẳng về nội dung giữa người
mua và người bán trong quan hệ hợp đồng[5], giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình khi giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì
thế, dù là bên bán hay bên mua, Công ước này đều trở thành một khung pháp lý hữu
hiệu và an toàn để giải quyết các tranh chấp phát sinh, nếu có.
- Thứ ba, việc áp dụng
Công ước Viên 1980 sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam
tránh được những tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế
Việt Nam đang trên con đường hội nhập một cách chủ động
và tích cực vào nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh các hoạt động thương mại quốc tế,
trong đó thương mại hàng hóa vẫn là hoạt động sôi động nhất. Trong quá trình tiến
hành mua bán trao đổi hàng hóa với các đối tác nước ngoài, việc áp dụng các văn
bản luật quốc gia sẽ gây nhiều khó khăn, bất lợi, làm phát sinh những xung đột
pháp luật với các nước khác và khi giải quyết tranh chấp cũng khó khăn. Khi gia
nhập Công ước Viên 1980, Việt Nam sẽ
thống nhất nguồn luật áp dụng trong mua bán hàng hóa quốc tế với các nước đối
tác khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Khi đó, các thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài sẽ cùng chung “tiếng
nói”, cùng chung một cơ sở pháp lý và các mối quan hệ mua bán hàng hóa sẽ chặt chẽ
và rộng mở hơn nữa, tránh được tranh chấp phát sinh.
2. Những vấn
đề cần lưu ý khi Việt Nam gia
nhập Công ước Viên 1980
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng
CISG tại các quốc gia thành viên cho thấy mặc dù việc gia nhập CISG hứa hẹn
mang lại nhiều lợi ích lớn như trên, khi gia nhập Việt Nam
cũng cần lưu ý một số điểm sau:
CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề
pháp lý mới phát sinh trong thương mại quốc tế. Được soạn thảo và thông qua từ cách đây 30 năm, CISG chưa
dự đoán và do đó chưa đưa vào các quy định của mình những vấn đề pháp lý mới
phát sinh sau này, ví dụ các quy phạm pháp lý liên quan đến thương mại điện tử.
Việc sửa đổi Công ước để bổ sung các nội dung pháp lý này có lẽ còn cần
một thời gian dài nữa (Công ước Viên
1980 không có cơ chế sửa đổi, điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với sự thay đổi
cán cân lợi ích của các thành viên và do đó mỗi thay đổi trong Công ước sẽ phải
được sự đồng ý, phê chuẩn của tất cả các thành viên). Vì vậy các doanh
nghiệp phải bằng lòng với nội dung hiện tại của CISG và vẫn cần những hệ thống
pháp luật khác để xử lý các vấn đề mới dù đã chọn CISG cho hợp đồng của mình.
Thực tế, dù thành công ở hầu hết các nước thành
viên, ở một vài nước khác, CISG không đạt được những thành công như mong đợi. Điển hình nhất là tại Hoa
Kỳ, CISG không được sử dụng với tần suất như mong đợi. Trường hợp của Hoa Kỳ chỉ là ngoại lệ trong số rất nhiều nước đã áp
dụng thành công CISG. Tu y nhiên, lưu
ý về trường hợp của Hoa Kỳ sẽ đặc biệt
có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với đối
tác Hoa Kỳ. Có thể việc gia nhập
Công ước này không mang lại nhiều lợi ích như suy đoán đối với các hợp đồng với
đối tác này, đặc biệt khi tranh chấp được xét xử tại Hoa
Kỳ.
Hơn nữa, dù rất nhiều đối tác thương mại lớn trên
thế giới đã là thành viên CISG, vẫn còn một số nước khác chưa gia nhập Công ước
này. Như đã nêu, dù CISG có số lượng
thành viên đông đảo, bao gồm những đối tác thương mại lớn trên thế giới, vẫn
còn một số đối tác quan trọng chưa tham gia Công ước (đáng kể nhất là Vương quốc
Anh và các nước khu vực ASEAN). Vì vậy CISG sẽ không phát huy hiệu quả trong những
trường hợp hợp đồng mua bán được ký kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp đối tác thuộc nước chưa gia nhập
CISG.
Cuối cùng, để CISG có hiệu quả ở Việt Nam , cần nhiều nỗ lực tuyên truyền, phổ biến về
CISG. Dù rất phổ biến trong thương mại quốc tế và nhiều nguyên tắc
quan trọng đã được đưa vào pháp luật Việt Nam ,
nội
dung Công ước Viên 1980 nhìn chung còn khá mới mẻ đối với hệ thống pháp luật,
tư pháp và trọng tài Việt Nam . Vì vậy
các doanh nghiệp, tòa án, trọng tài ở Việt Nam
cần có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu rõ khi áp dụng CISG trong các
quan hệ giao dịch thương mại quốc tế. Công ước hiện được lưu hành theo 6 thứ tiếng,
và điều này có thể gây khó khăn khi áp dụng Công ước (đặc biệt khi chúng ta hiểu
không đúng hoặc không đủ ý nghĩa hàm chứa trong các quy định cụ thể). Vì vậy, để
CISG thực sự có hiệu quả khi Việt Nam
gia nhập Công ước này, việc tuyên truyền và nghiên cứu về nội dung CISG cần được
thực hiện thường xuyên và có hệ thống.
Có
thể nói nếu như Việt Nam có thể thu
rất nhiều lợi ích khi gia nhập CISG, vẫn tồn tại những vấn đề cần được lưu ý để
có thể tận dụng các thế mạnh và lợi ích của CISG. Cần lưu ý rằng tất cả những bất
cập nói trên của CISG không phải là những vấn đề về then chốt về nội dung mà chủ
yếu liên quan đến đến việc áp dụng Công ước này.
3. Điều kiện và thủ tục gia nhập Công ước Viên
CISG
không có quy định về điều kiện gia nhập đối với các quốc gia không tham gia ký
kết như Việt Nam (Điều 91, khoản 3
CISG: Công ước này sẽ nhận
sự gia nhập tất cả các quốc gia không ký tên, kể từ ngày Công ước để ngỏ cho
các bên ký kết). Các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ đóng góp
về tài chính, không phải thành lập một cơ quan riêng để thực thi Công ước, cũng
không có bất kỳ nghĩa vụ báo cáo định kỳ nào. Thủ tục để một quốc gia gia nhập Công ước khá đơn giản,
không phải qua quá trình phê duyệt, phê chuẩn. Cơ quan có thẩm quyền của quốc
gia muốn gia nhập CISG chỉ cần đệ trình văn bản gia nhập và đưa ra các tuyên bố
bảo lưu (nếu có).
Theo quy định của
Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, trong trường hợp
Việt Nam gia nhập CISG thì việc gia
nhập sẽ phải tuân theo các thủ tục sau:
Bước
1: Bộ Công Thương nghiên cứu khả năng Việt Nam
gia nhập Công ước Viên 1980.
Bước
2: Bộ Công Thương lấy ý kiến kiểm tra bằng văn bản của Bộ Ngoại giao, ý kiến thẩm
định của Bộ Tư pháp, ý kiến của các cơ quan hữu quan.
Bước
3: Bộ Công Thương tổng hợp ý kiến và đề xuất với Chính phủ về việc gia nhập
CISG.
Bước
4: Chính phủ ra quyết định gia nhập CISG (do việc gia nhập Công ước không đòi hỏi
phải sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hay bàn hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội).
Bước
5: Chính phủ đệ trình văn bản gia nhập cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
4. Yêu cầu sau gia nhập
Mặc
dù không có đòi hỏi bắt buộc nào về thủ tục sau gia nhập, theo khuyến nghị của UNCITRAL, các cơ quan áp dụng
pháp luật tại các quốc gia thành viên nên có một hệ thống báo cáo các vụ kiện liên quan đến Công ước Viên 1980. Hệ thống này
sẽ tập hợp và báo cáo các vụ kiện có liên quan đến Công ước này cho Ba n thư ký của UNCITRAL để cơ quan này đưa lên hệ thống
cơ sở dữ liệu “CLOUT” (Case Law on UNCITRAL Texts). Đây là khuyến nghị, không
phải là “nghĩa vụ” của quốc gia thành viên Công ước. Tu y
nhiên, đây là việc nên làm vì công khai hóa các phán quyết/ quyết định của tòa
án/ trọng tài của Việt Nam liên quan
đến CISG sẽ góp phần làm tăng sự tin tưởng của cộng đồng kinh doanh quốc tế vào
sự minh bạch của hệ thống pháp luật Việt Nam
về thương mại quốc tế. Nếu thực
hiện khuyến nghị này, sau khi Việt Nam
gia nhập CISG, một cơ quan hay tổ chức được chỉ định sẽ chịu trách nhiệm về việc
thực hiện Báo cáo án lệ cho UNCITRAL.
[1] Việt Nam đã tham gia 52 trong số 210 điều ước quốc tế
quan trọng trong lĩnh vực thương mại quốc tế, trong khi đó tỷ lệ trung bình
trên thế giới là 72/210 và trong khu vực là 59/210. Về vấn đề này, Việt Nam được xếp hạng thứ 132 trên thế giới (trên 192 quốc
gia) và thứ 14 trong khu vực Châu Á (trên 23 quốc gia). Nguồn :
International Tra de Centre
(UNCTAD/WTO) & Ministry of Tra de
of Vietnam, Report on key multilateral
treaties affecting trade not ratified by Vietnam- A cost/benefit analysis,
March 2007.
[3] Điều này được
khẳng định trong các công trình nghiên cứu sau: LAMAZEROLLES Eddy, Les
apports de la Convention de Vienne au droit interne de la vente, LGDJ,
2003 ; BERNSTEIN Herbert, Understanding the CISG in Europe: a compact
guide to the 1980 United Nations Convention on contracts for the International
sales of goods, Kluwer Law International, 2002 ; LOOKOFSKY Joseph,
Understanding the CISG in the USA: a compact guide to the 1980 United Nations
Convention on contracts for the International sales of goods, Kluwer Law
International, second edition, 2002 ; LOOKOFSKY Joseph, Understanding the
CISG in Scandinavia, Kluwer Law International, 2002; CASTELLET Lorence, The
application of the Vienna Convention in the United States, RDAI, no5
du 01/06/1999, p.528-595; MOULY Christian, Que change la Convention de Vienne sur la vente internationale par
rapport au droit français interne ?, dans Recueil Dalloz Sirey,
1991, 11è cahier, Chroniques, p.77-79 ; WITZ Claude, L’adaptation du droit français interne aux
règles de la Convention de Vienne sur la vente internationale de marchandises,
dans Mélanges Christian MOULY, Paris, LITEC, 1998, livre II, p.205-219.
[4] Ba n tư vấn CISG (CISG-AC) được thành lập năm 2001 do
nhu cầu ngày càng tăng của việc làm rõ các vấn đề tranh cãi liên quan đến CISG.
CISG-AC đóng góp vào việc hướng dẫn giải thích Công ước Viên 1980 thông qua các
Bình luận Chính thức. Hiện đã có 09 Bình
luận Chính thức được công bố. Xem them tại <http://www.cisgac.com/> truy cập ngày 10/8/2009.
[5] Điều này có thể được nhận thấy ngay từ việc quan sát cơ cấu của Công ước
Viên 1980 với những chương, mục, điều lần lượt áp dụng cho người bán và cho người
mua, tạo ra những quyền và nghĩa vụ có tính chất tương xứng giữa hai bên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét