LỜI NÓI ĐẦU
Thanh toán quốc tế là mắt xích
không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh tế quốc dân.Thanh toán quốc tế
là khâu quan trọng của giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các cá nhân, tổ
chức thuộc các quốc gia khác nhau. Thanh toán quốc tế góp phần giải quyết mối
quan hệ hàng hoá tiền tệ, tạo nên sự liên tục của quá trình sản xuất và đẩy
nhanh quá trình lưu thông hàng hoá trên phạm vi quốc tế. Nếu hoạt động thanh
toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an toàn sẽ khiến cho quan hệ lưu thông
hàng hoá tiền tệ giữa người mua và người bán diễn ra trôi chảy, hiệu quả hơn.[1]
Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần chọn phương thức thanh toán nào phù
hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình và nhằm đảm bảo các rủi ro xảy ra. Với
yêu cầu thực tế đó em xin chọn đề tài: “Theo
anh (chị), doanh nghiệp Việt Nam nên sử dụng phương thức thanh toán nào để bảo
vệ tối đa quyền lợi hợp pháp của mình, nhằm hạn chế các rủi ro trong những giao
dịch thương mại quốc tế.”
NỘI DUNG
Đánh giá chung về tiềm năng kinh tế
cũng như quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, theo VCCI cho biết năm
2014, cả nước có 764.374 DN đăng ký thành lập theo Luật DN, trong đó có 391.547
DN đang hoạt động. Trong 10 tháng của năm có thêm 60.023 DN thành lập mới với tổng
số vốn đăng ký 352.000 tỉ đồng.Trong số các DN đang hoạt động, tỉ lệ DN ngoài
nhà nước chiếm 96%. Các DN có quy mô lớn chỉ chiếm 2%, số DN có quy mô vừa cũng
ở mức tương tự, còn lại 96% là DN có quy mô nhỏ và siêu nhỏ.Riêng DN siêu nhỏ
(theo tiêu chí có dưới 10 lao động) chiếm tới 67%. Do quy mô nhỏ nên có rất nhiều
DN Việt Nam chưa đủ năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài
hoặc tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu.[2]
Như vậy, với quy mô kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam tương đối nhỏ
bạn hàng chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là Mỹ, Nhật, Singapo, Trung Quốc
và các nước Đông Nam á, có những thói quen thanh toán riêng. Các phương thức
thanh toán quốc tế mà các Doanh nghiệp Việt Nam nên lựa chọn không có công thức
chung áo dụng cho tất cả các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp dựa vào mối quan
hệ với bạn hàng tiềm lực kinh tế doanh nghiệp để lựa chọn các phương thức thanh
toán sau:
1. Phương thức chuyển tiền (remittance)
Phương thức chuyển tiền là việc một người (người trả tiền) yêu cầu ngân
hàng chuyển số tiền nhất định cho người khác (người thụ hưởng) ở địa điểm nhất
định. Phương thức chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách:
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic transfer – T/T)
- Chuyển tiền bằng thư (Mail transfer – M/T)
Đối với phương thức chuyển tiền có
những ưu điểm nổi trội sau: Thanh toán đơn giản quy trình nghiệp vụ dễ dàng; Tốc
độ nhanh chóng (nếu thực hiện bằng T/T); Chi phí thanh toán T/T qua ngân hàng
tiết kiệm hơn thanh toán L/C; Bên mua không bị đọng vốn ký quỹ L/C ; Chứng từ
hàng hoá không phải làm cẩn thận như thanh toán L/C.
Chính vì vậy các doanh nghiệp Việt
Nam chọn phương thức thanh toán này sẽ có những lợi thế: Không phải chịu sức ép
về rủi ro phát sinh và có thể thu được tiền hàng ngay nếu sử dụng phương thức
điện chuyển tiền; Chuyển tiền trả trước thuận lợi cho nhà xuất khẩu vì nhận được
tiền trước khi giao hàng nên không sợ rủi ro, thiệt hại do nhà nhập khẩu chậm
trả các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nên áp dụng phương thức trả tiền trước;
Chuyển tiền trả sau thuận lợi cho doanh nghiệp nhập khẩu Viêt Nam vì nhận được
hàng trước khi giao tiền nên không sợ bị thiệt hại do nhà xuất khẩu giao hàng
chậm hoặc hàng kém chất lượng; Trong phương thức chuyển tiền, Ngân hàng chỉ là
trung gian thực hiện việc thanh toán theo uỷ nhiệm để hưởng thủ tục phí (hoa hồng)
và không bị ràng buộc gì cả.
Tuy nhiên, phương thức chuyển tiền
chứa đựng rủi ro lớn nhất vì việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người
mua. Do đó, nếu dùng phương thức này quyền lợi của tổ chức xuất khẩu không đảm
bảo.Vì vậy chỉ sử dụng phương thức này trong trường hợp hai bên mua bán đã có sự
tin cậy, hợp tác lâu dài, tín nhiệm lẫn nhau và thanh toán các khoản tương đối
nhỏ như thanh toán chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu, chi phí vận chuyển
bảo hiểm, bồi thường thiệt hại, hoặc dùng trong thanh toán phí mậu dịch, chuyển
vốn, chuyển lợi nhuận đầu tư về nước…
Phương thức trả tiền trước mang lại nhiều rủi ro cho người mua vì có thể
người xuất khẩu không chuyển hàng ngay cả khi đã được thanh toán, làm cho nhà
nhập khẩu rơi vào tình trạng bị động; Phương thức này gây nhiều khó khăn về
dòng tiền và tăng rủi ro cho người mua cho nên thông thường họ ít khi chấp nhận
trả tiền trước khi nhận được hàng.
Đối với phương thức chuyển tiền trả sau sẽ bất lợi cho nhà xuất khẩu bởi
vì nếu nhà nhập khẩu chậm lập lệnh chuyển tiền (do gặp khó khăn về tài chính
hay thiếu thiện chí thanh toán) gửi cho ngân hàng thì nhà xuất khẩu sẽ chậm nhận
được tiền thanh toán mặc dù hàng hóa đã chuyển đi và nhà nhập khẩu đã có thể nhận
được và sử dụng hàng hóa rồi.Trường hợp nhà nhập khẩu không nhận hàng thì nhà
xuất khẩu phải mất mất chi phí vận chuyển hàng, phải bán rẻ hoặc tái xuất.Do
đó, nhà xuất khẩu bị thiệt hại do thu hồi vốn chậm ảnh hưởng đến sản xuất trong
tương lai trong khi ngân hàng không có nhiệm vụ và cách thức gì để đôn đốc nhà
nhập khẩu nhanh chóng chuyển tiền chi trả nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà xuất
khẩu.
Đối với phương thức chuyển trả trước bất lợi cho nhà nhập khẩu vì đã
chuyển tiền thanh toán cho nhà xuất khẩu nhưng chưa nhận được hàng và đang
trong tình trạng chờ đợi nhà xuất khẩu giao hàng. Nếu vì lí do gì đó khiến nhà
xuất khẩu chậm trễ giao hàng, nhà nhập khẩu sẽ bị nhận hàng trễ.
2. Phương thức nhờ thu (Collection of
Payment)
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán mà nhà xuất khẩu sau khi
cung cấp hàng hóa hay dịch vụ ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền
nhà nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu và chứng từ hàng hóa do nhà nhập khẩu lập.
Các thành phần chủ yếu tham gia phương thức thanh toán này như sau:Người
xuất khẩu; Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu; Ngân hàng đại lý của ngân hàng phục
vụ người xuất khẩu (đó là ngân hàng quốc gia của người nhập khẩu); Người nhập
khẩu.
Phương thức nhờ thu được phân ra làm hai loại như sau:
- Nhờ thu phiếu trơn: Người xuất
khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho
người nhập khẩu (không qua ngân hàng), đồng thời uỷ thác cho ngân hàng phục vụ
mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại
quốc tế vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
- Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức trong đó người xuất khẩu uỷ
thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối
phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là người
nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn, thì ngân hàng mới trao bộ
chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng.Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là
người thu hộ tiền mà còn là người khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống
chế này quyền lợi của người xuất khẩu được đảm bảo hơn.
Các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phương thức nhờ thu khi: Hai bên thực
sự tin cậy lẫn nhau; Người mua sẵn sàng thanh toán và có khả năng thanh toán;
Điều kiện kinh tế và chính trị của nước người mua ổn định; Chính phủ nước người mua không có những biện
pháp kiểm soát ngoại hối. Sử dụng phương thức thanh toán nhờ thu kèm chứng từ
quyền lợi của tổ chức xuất khẩu có được đảm bảo hơn không bị mất hàng nếu bên nhập khẩu
không thanh toánvai trò ngân hàng được
nâng cao thêm trách nhiệm. Chỉ thị nhờ thu là văn bản mang tính chất pháp lý điều
chỉnh quan hệ giữa các bên tham gia nghiệp vụ theo nguyên tắc URC ràng buộc tất
cả các bên tham gia nhiệp vụ thừ khi có thỏa khác hoặc trái với pháp luật hay
các quy định của quốc gia.
Mặc dù phương thức nhờ thu được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế
nhưng phương thức này vẫn có những rủ ro: Phương thức nhờ thu trơn rất ít được
áp dụng trong thanh toán tiền hàng vì không đảm bảo quyềm lợi cho cả hai bên
nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu do việc nhân hàng và thanh toán tách rời nhau vì
vậy chỉ được sử dụng trong thanh toán phí hoặc nhờ thu Sec giữa các ngân hàng;
Phương thức nhờ thu chứng từ thì việc thu tiền của nhà xuất khẩu vẫn chưa chắc
chắn. Tuy còn giữ quyền kiểm soát hàng hóa sau khi giao hàng nhưng nếu nhà nhập
khẩu không nhận hàng hoặc không trả tiền sẽ có rủi ro; Chi phí nhờ thu trả ngân
hàng bên nào chịu? Nếu thu không được thì bên xuất khẩu phải thanh toán phí cho
cả hai ngân hàng; Tốc độ thanh toán vẫn
chậm, rủi ro cho bên xuất khẩu vẫn lớn.
3. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
(Documentary Credit)
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó một ngân
hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) đáp ứng những yêu cầu của khách hàng (người
xin mở thư tín dụng) cam kết hay cho phép ngân hàng khách chi trả hoặc chấp nhận
những yêu cầu của người hưởng lợi khi những điều khoản và điều kiện quy định
trong thư tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ.
Các loại thư tín dụng chủ yếu là:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang:
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở thì việc bổ sung sửa chữa hoặc
huỷ bỏ có thể tiến hành một cách đơn phương.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang:
Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở thì việc sữa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ
chỉ được ngân hàng tiến hành theo thoã thuận của tất cả các bên có liên quan.
Trong thương mại quốc tế thư tín dụng này được sử dụng phổ biến nhất
- Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có
xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, được một ngân hàng khác đảm
bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng.
- Thư tín dụng chuyển nhượng:
Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó quy định quyền của ngân hàng trả
tiền được trả hoàn toàn hay trả một phần của thư tín cho một hay nhiều người
theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.[3]
Trong phương thức tín dụng chứng từ ngân hàng không chỉ là người trung
gian thu hộ, chi hộ, mà còn là người đại diện bên nhập khẩu thanh toán tiền cho
bên xuất khẩu, đảm bảo cho tổ chức xuất khuẩu được khoản tiền tương ứng với
hàng hoá mà họ đã cung ứng, đồng thời đảm bảo cho tổ chức nhập khẩu nhận được số lượng, chất lượng hàng hoá tương ứng
với số tiền mình đã thanh toán.
Với những ưu điểm đó phương thức thanh toán chứng từ đã trở thành phương
thức thanh toán hữu hiệu nhất cho cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu.Về phía nhà
xuất khẩu: rủi ro ít nhất, ngân hàng phát hành/ ngân hàng xác nhận có trách nhiệm
thanh toán tiền hàng nếu bộ chứng từ phù hợp với nội dung trong L/C; Về phía
nhà nhập khẩu: được đảm bảo việc chuyển hàng
Tuy nhiên điểm trừ đối với phương thức này là phương thức thanh toán này
tốn nhiều thời gian do phải thực hiện qua nhiều bước,việc lập chứng từ đòi hỏi
phải có độ chính xác cao, ít sai sót và kiểm tra chứng từ tiến hành qua nhiều
bên nếu có sai sát phải sửa lại làm cho nhà nhập khẩu lâu nhận được chứng thừ
thanh toán để nhận hàng, tốn kém chi phí cho việc bào quản hàng hóa ở cảng nhập
khẩu; nhà xuất khẩu chập nhận được tiền thanh toán. Ngoài ra, phương thức này chi
phi giao dịch với ngân hàng lớn.
4. Các phương thức thanh toán khác
Phương thức giao chứng từ nhận tiền (CAD:
Cash Against Documents) là phương thức thanh toán mà trong tổ chức
nhập khẩu trên cơ sở hợp đồng mua bán, yêu cầu ngân hàng bên xuất khẩu mở cho
mình một tài khoản tín thác (Trust account)
để thanh toán tiền cho tổ chức xuất khẩu, khi nhà xuất khẩu xuất trình đầy
đủ chứng từ theo những thoả thuận.Phương thức này thủ tục thanh toán cho bên xuất
khẩu nhanh chong và đơn giản. Nhà nhập khẩu không Việc mua bán hàng hóa được
nhà nhập khẩu ủy thác cho ngân hàng trực tiếp giao dịch với nhà xuất khẩuPhương
pháp này được áp dụng trong trường hợp tổ chức nhập khẩu rất tin tưởng nhà xuất
khẩu và tổ chức nhập khẩu có văn phòng đại diện tại nước xuất khẩu.
Phương thức ghi sổ (open account): Đây thực chất là một hình thức mua bán
chịu. Phương thức này hoàn toàn có lợi cho nhà nhập khẩu (người được ghi sổ).
Nhà xuất khẩu sẽ phải gánh chịu rủi ro khi bên nhập khẩu không thanh toán hoặc
chậm trễ thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ.Để hạn chế rủi ro, chỉ áp dụng
phương thức này khi cả hai bên là các bạn hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài,
thực sự tin cậy lẫn nhau. Để bảo đảm an toàn cho nhà xuất khẩu, các bên có thể
áp dụng biện pháp bảo đảm như thư bảo lãnh ngân hàng, thư tín dụng dự phòng, đặt
cọc…
Phương thức Bảo lãnh và Tín dụng dự phòng: Bảo lãnh hoặc thư tín dụng dự phòng được
sử dụng kết hợp với các phương thức thanh toán khác để tăng độ an toàn cho các
bên. Do vậy, trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt đối với các
hàng hóa có giá trị lớn như máy móc, thiết bị các bên cũng nên xem xét và áp dụng
các biện pháp bảo lãnh hoặc thư tín dụng dự phòng.[4]
KẾT LUẬN
Như vậy, đối với từng doanh nghiệp có những đặc điểm và lợi thế cụ thể,
cũng như đặc điểm của mối quan hệ đối tác quốc tế lựa chọn những phương thức
thanh toán khác nhau. Đồng thời trong mối quan hệ mua bán quốc tế các doanh
nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhập khẩu hay xuất khẩu, số lượng hang hóa và số
tiền thanh toán bao nhiêu để lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp. Tuy
nhiên, đánh giá tổng thể đối với các doanh nghiệp Việt nam và các phương thức
thanh toán quốc thế thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ bảo vệ tốt nhất
quyền lợi hợp pháp của mình, nhằm hạn chế các rủi ro trong những giao dịch
thương mại quốc tế.
[3] “Các phương thức thanh toán quốc tế
trong kinh doanh, xuất nhập khẩu” - bài
đăng trên trang http://thuongmaiwto.com/.
[4] “ ĐIỀU
KIỆN VÀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ” - Lê Minh Tuấn, Chủ tịch, luật sư điều hành/ Chairman, Executive lawyer.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét