Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI TỐ DỤNG DÂN SỰ

1.   Chỉ những cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hay tranh chấp.
Trả lời:
             Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
           Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
              Theo Điều 161 BLTTDS quy định: “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Như vậy, theo điều 161 quy định thì cá nhân, cơ  quan, tổ chức có quyền khởi kiện tại Tòa án.
              Và theo quy định tại khoản 1 Điều 57 BLDS quy định về năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự: “1. Năng lực pháp luật ttds là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
               Theo đó, những cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, trong trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hay tranh chấp thì họ có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi pháp của mình.
……………
           Đồng thời, khi bị xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình những cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hay tranh chấp.
            ► Như vậy, không chỉ những cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng lực hành vi dân sự mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hay tranh chấp.










2.   Tất cả các nguyên đơn đều phải tự mình thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
              Theo Điều 161 BLTTDS quy định quyền khởi kiện vụ án: “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
            Đồng thời, theo khoản 2 Điều 57 BLTTDS quy định: “2. năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự”. theo đó, khi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, thì họ cá khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
             Do vậy, quyền khởi kiện của nguyên đơn phụ thuộc vào năng lực hành vi của họ. Nếu không có năng lực hành vi thì phải thông qua người đại diện hợp pháp của họ.
            Theo quy định tại Điều 57 BLTTDS về năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự:
“4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
5. đương sự là người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện”.
và khoản 6,7  điều 57 …..do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng.
       Đồng thời, theo Điều 2 nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP quy định đối với cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sư, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khở kiện vụ án. Hoặc đối với những cá nhân không đủ năng lực hành vi dân sự (khoản 2,3,4,5) thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm đơn khởi kiện vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ sẽ làm đơn khởi kiện vụ án.
      ► Như vậy, không phải Tất cả các nguyên đơn đều phải tự mình thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án, mà có thể nhờ người khác or người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
            
3.   Trong mọi thời điểm của quá trình tố tụng dân sự, đương sự đều có quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là 1 trong các quyền của các đương sự trong tố tụng dân sự.
+ theo điểm đ khoản 2 Điều 58 BLTTDS quy định khi tham gia tố tụng, đương sự có quyền, nghĩa vụ sau đây: “đ) Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập”.
Như vậy, đương sự có quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ do các đương sự khác xuất trình or do Tòa án thu thập.
+ Tuy nhiên, theo k1 điều 17 Nghị quyết 03/2012 quy định: “1. Đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án trước khi Tòa án mở phiên toà xét xử vụ án. Khi có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ phải làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền. Nếu họ trực tiếp đến Tòa án trình bày yêu cầu được ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ cũng phải thể hiện bằng văn bản nộp cho Tòa án…”.
Do đó, đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án trước khi Tòa mở phiên tòa xét xử vụ án.
► Như vậy, không phải trong mọi thời điểm của quá trình tố tụng dân sự, đương sự đều có quyền được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Mà chỉ được đương sự biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án trước khi Tòa mở phiên tòa xét xử vụ án.
         
4.   Đương sự có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì phải làm đơn gửi tới Tòa án có thẩm quyền trong mọi trường hợp.
Trả lời: theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
+ quyền ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là 1 trong các quyền của các đương sự trong tố tụng dân sự.
+

5.   Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ được tham gia tố tụng sau khi Tòa án đã cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
        Theo điều 9 blttds quy định bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự: “ đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”. theo đó, đương sự có thể tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo luật định để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
 + Theo khoản 1 điều 63 BLTTDS quy định: “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tó tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
+ và theo khoản 2 điều 63 quy định những người sau đây được tòa án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự: luật sư tham gia tố tụng theo qđ của pl về dân sự; trợ giúp viên pháp lý hoặc ng tham gia trợ giúp pháp lý..; công dân việt nam có hành vi dân sự đầy đủ…
+ bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 4 điều 18 nghị quyết 03/2012/nq – hđtp:
“4. Tại phiên toà đương sự mới nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì Hội đồng xét xử chấp nhận, nếu người được đương sự nhờ làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đáp ứng các điều kiện được hướng dẫn tại khoản 1 Điều này và việc chấp nhận đó không gây cản trở cho Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án”.
          ►Như vậy, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự  được tham gia tố tụng không chỉ sau khi Tòa án đã cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, mà họ được tham gia khi đáp ứng đủ điều kiện được hướng dẫn tại khoản 1 điều 18 NQ 03/2012.

6.   Trong một số trường hợp thì một người có thể tham gia tố tụng với tư cách là đương sự đồng thời là người đại diện của đương sự khác trong cùng một vụ án dân sự.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là đúng, vì:
       Theo điều k1 đ 75 BLTTDS quy định những trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện
b) nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho 1 đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án”.
         Theo đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thi một người có thể tham gia tố tụng với tư cách là đương sự đồng thời là người đại diện của đương sự khác trong cùng một vụ án dân sự. Nếu việc đại diện đó không đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
           Đồng thời, theo khoản 1 điều 22 nghị quyết 03/2012 về quy định tại điều 75 của BLDS: “1. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 75 của BLTTDS người đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự, thì không được làm người đại diện theo pháp luật cho một đương sự khác trong cùng một vụ án mà quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đó đối lập với nhau. Trong trường hợp này họ chỉ được làm người đại diện theo pháp luật cho đương sự mà chính họ đang là người đại diện theo pháp luật của đương sự đó trong vụ án”. Do đó, theo khoản 2 điều 22 nghị quyết 03 thì 1 người đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho 1 đương sự thì không được làm đại diện theo pháp luật cho một đương sự khác trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đó đối lập nhau.
           ►Như vậy, Trong một số trường hợp thì một người có thể tham gia tố tụng với tư cách là đương sự đồng thời là người đại diện của đương sự khác trong cùng một vụ án dân sự, nếu việc đại diện đó không đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện, cũng như có sự đối lập giữa các đối tượng với nhau.   
7.   Không phải trong mọi trường hợp người phiên dịch đều phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đồng thời là người đại diện, người thân thích của đương sự.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là đúng, bởi vì:
        Người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ khác ra tiếng việt và ngượi lại. việc tham gia của người phiên dịch có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định tại k 3,4 Đ 70 BLTTDS:
 “3. Người phiên dịch phải từ chối hoặc bị thay đổi trong những trường hợp sau đây:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 46 của Bộ luật này;
b) Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.
4. Những quy định của Điều này cũng được áp dụng đối với người biết dấu hiệu của người câm, người điếc.
Trong trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người câm, người điếc biết được dấu hiệu của họ thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Toà án chấp nhận làm phiên dịch cho người câm, người điếc đó”.
► Như vậy, không phải trong mọi trường hợp người phiên dịch đều phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu họ đồng thời là người đại diện, người thân thích của đương sự. Mà họ chỉ bị thay đổi or từ chối trong một số trường hợp mà pháp luật quy định.
8.   Trong mọi trường hợp người đại diện hợp pháp của đương sự đều có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
      Trong tố tụng dân sự, để bảo vệ q và lợi ích hợp pháp của mình các đương sự thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. tuy vậy, trong một số trường hợp người khác có thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp páp của đương sự. người tham gia tố tụng dân sự này đc gọi là ngườ dại diện của đương sự.
        Người đại diện của đương sự bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người đại diện do tòa án chỉ định và người đại diện theo ủy quyền.
+ người đại diện theo pháp luật








……………………………………..
9.   Trong mọi trường hợp khi tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ thì Tòa án đều phải ra quyết định.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
     +  Thu thập chứng cứ là việc phát hiện, tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng, giải quyết vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu nên đương sự.  Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu.
       + Theo khoản 2 điều 85 BLTTDS quy đinh: “2. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Trưng cầu giám định;
c) Quyết định định giá tài sản;
d) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
đ) Uỷ thác thu thập chứng cứ;
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”.










   …………………… 
10.                       Tòa án chỉ tự mình thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không thể tự thu thập được và có đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
Trả lời: sai, bởi vì:
+ Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự.
+ Trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu. Ngoài ra, Tòa án cũng có quyền thu thập chứng cứ trong một số trường hợp luật định.
+ Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 LTTDS: “2. Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp  do Bộ luật này quy định”.  Do vậy, Tòa án sẽ tiến hành thu thập chứng cứ trong những trường hợp do pháp luật quy định.
+ ……………………    








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét