Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

ĐỀ CƯƠNG TỐ DỤNG DÂN SỰ PHẦN 2

1.    Tòa án chỉ ra quyết định trưng cầu giám định trong trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận yêu cầu Tòa án về vấn đề này.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
        Trưng cầu giám định là việc Tòa án quyết định đưa vấn đề liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định ra lấy ý kiến kết luận của người có chuyên môn, kinh nghiệm về lĩnh vực đó.
      Việc trưng cầu giám định được tiến hành theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.
       Theo quy định tại khoản 1 điều 90 BLTTDS: “1. Theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định”.
      Do đó,  Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định trong trường hợp theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự.
…………..


2.   Trong mọi trường hợp, Thẩm phán phải tiến hành lấy lời khai của đương sự, người làm chứng tại trụ sở của Tòa án.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
       Việc lấy lời khai của đương sự, người làm chứng  sẽ giúp cho Tòa án làm rõ được các tình tiết của vụ việc dân sự.
         Tòa án có thể lấy lời khai của đương sự, người làm chứng ở tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án.
+ lấy lời khai của đương sự: theo quy định tại khoản 1 điều 86 BLTTDS:”….. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án”.
Đồng thời theo quy định tại khoản 2 điều 6  nghị quyết 04/2012/NQ – HĐTP: “…Việc lấy lời khai của đương sự được thực hiện tại trụ sở Toà án. Chỉ trong những trường hợp đương sự không thể đến Toà án được vì những lý do khách quan, chính đáng (đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, bị ốm đau, bệnh tật,…), thì có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án…”
    Như vậy, việc lấy lời khai của đương sự có thể tiến hành ở tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án trong một số trường hợp cụ thể.
+ lấy lời khai của người làm chứng: theo quy định tại khoản 1 điều 87 BLTTDS: “1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án”.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 điều 7 nghị quyết 04/2012: “2. Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án và được thực hiện như việc lấy lời khai của đương sự quy định tại khoản 2 Điều 86 của BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 6 của Nghị quyết này”.
       Như vậy, tòa án có thể lấy lời khai của đương sự, người làm chứng tại trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án.
3.    Không phải trong mọi trường hợp trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Thẩm phán đều phải cho đối chất giữa đương sự với người làm chứng.
Trả lời: đúng, vì:
+ Đối chất là việc hỏi cùng một lúc nhiều đương sự, người làm chứng để so sánh, đánh giá lời khai của họ khi xét thấy có sự mâu thuẫn. Khi có các ý kiến khác nhau về vấn đề nào đó của vụ việc dân sự thì tòa án phải đối chất.
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTDS: “1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau”.
+ Do đó, theo yêu cầu của đương sự or khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng thì Thẩm phán tiến hành đối chấp giữa đương sự và người làm chứng.
+ Đồng thời, theo khoản 1 Đều 8 nghị quyết 04/2012  quy định: “1. Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau theo thứ tự hợp lý (tùy từng trường hợp cụ thể mà tiến hành đối chất về từng vấn đề một hoặc để từng người trình bày về các vấn đề cần đối chất theo thứ tự)”.
► Như vậy, không phải trong mọi trường hợp trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Thẩm phán đều phải cho đối chất giữa đương sự với người làm chứng. Mà Thẩm phán phải cho đối chất giữa đương sự với người làm chứng khi đương sự có yêu cầu or khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng.
4.    Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và biện pháp cần thiết khác để bảo toàn chứng cứ.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là đúng, bởi vì:
           Chứng cứ có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự, làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
          Theo quy định tại k1 điều 98 BLTTDS về bảo vệ chứng cứ:  “1. Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Toà án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Toà án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác”. Do đó, trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy thì đương sự có quyền yêu cầu tòa án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ chứng cứ.
           Bên cạnh đó, theo khoản 1,2 điều 99 BLTTDS quy định: trog trường hợp giải quyết vụ án, hay trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền yêu cầu Toà án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự bảo vệ chứng cứ..
            Như vậy,  Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy thì đương sự có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và biện pháp cần thiết khác để bảo toàn chứng cứ.
……………………………..
5.    Trong mọi trường hợp Tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của đương sự.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
       Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng or bảo đảm việc thi hành án.
        Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể theo yêu cầu của đương sự or Tòa án ra quyết định trong một số trường hợp Luật định.
+ Theo quy định tại Khoản 3 điều 99 BLTTDS: “3. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này”.
+ Và theo điều 119 BLTTDS quy định Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: “Toà án tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Do đó, Tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong một số trường hợp quy định tại các khoản 1,2,3,4,5 điều 102 BLTTDS.
        Đó là các trường hợp: Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm; Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.
+ đồng thơi, theo khoản 3.1 và 3.2 điều 3 nghị định 02/2005/NQ – HĐTP quy định: “3.1. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một hoặc nhiều BPKCTT quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 102 của BLTTDS trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng BPKCTT.
3.2. Toà án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một BPKCTT cụ thể khi có đầy đủ các điều kiện do BLTTDS quy định đối với BPKCTT đó”.
    Như vậy, không phải trong mọi trường hợp Tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của đương sự, mà Tòa án còn tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong một số trường hợp Luật định.     
6.    Trong một số trường hợp Tòa án có quyền tự mình quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trả lời: Đúng  (giống câu 15)
Theo em, khẳng định trên là đúng, bởi vì:
7.    Mọi trường hợp người yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đều phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
     +  Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tuy giải quyết được nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo đảm việc giải quyết vụ án và thi hành nhưng có thể gây thiệt hại cho người thứ 3. Do vậy, pháp luật đã quy định buộc người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm.
       + Tuy nhiên, theo điều 120 BLTTDS quy định việc thực hiện biện pháp bảo đảm chỉ thực hiện đối với những trường hợp mà việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể xâm phạm  nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng hoặc người thứ ba.
       + Theo quy định tại khoản 1 điều 120 BLTTDS quy định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm: “1. Người yêu cầu Toà án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của Bộ luật này phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu”.
     ►   Như vậy, chỉ những người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 6,7,8,10 và 11 điều 120 của BLTTDS thì mới bắt buộc thực hiện biện pháp bảo đảm.
       + Đồng thời, theo quy định tại khoản 8.1 điều 8 nghị quyết 02/2005/NQ – HĐTP: “8.1. Trong trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 102 của BLTTDS, thì Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà) buộc người yêu cầu phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ấn định, nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện”.
           ► như vậy, không phải Mọi trường hợp người yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đều phải thực hiện biện pháp bảo đảm, mà việc áp dụng biện pháp bảo đảm chỉ trong một số trường hợp do Luật định bắt buộc phải áp dụng biện pháp bảo đảm.
8.   Nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời gây thiệt hại cho người bị áp dụng thì trong mọi trường hợp Tòa án đều phải bồi thường.
Trả lời:
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
      +  Để nâng cao tính trách nhiệm của Tòa án và người có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, pháp luật quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng. Nếu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại chon g bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho ng thứ 3 thì Tòa án phải bồi thường. tuy vậy, Tòa án chỉ phải bồi thường khi thuôc một trong các trường hợp pháp luât quy định.
       + Theo khoản 2 điều 101 BLTTDS quy định: “2. Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Toà án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Toà án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
b) Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;
c) Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
NGHỊ QUYẾT 02………………




► Như vậy, Nếu việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời gây thiệt hại cho người bị áp dụng thì Tòa án  phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp mà pháp luật quy định.
9.    Cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án.
Trả lời:
         Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì: điều 99, nghị quyết 02
………………………………………………..
10.                       Chỉ người tiến hành tố tụng dân sự mới có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo.
Trả lời: điều 146, 148
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
- về nguyên tắc, cơ quan nào ban hành văn bản tố tụng phải cấp, tống đạt or thông báo cho những người tham gia tố tụng or những người liên quan văn bản tố tụng.
- theo nguyên tắc này, điều 146, điều 148  quy định BLTTDS quy định:
+ Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành cán có nghĩa vụ cấp, tống đạt or thông báo các văn bản tố tụng cho những người liên quan đến vụ việc dân sự.
“Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của Bộ luật này” (điều 146 BLTTDS).
+ Người tiến hành tố tụng hoặc cán bộ của Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án có quyền hạn và nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan này trong việc cấp, tống đạt or thông báo văn bản tố tụng.
Ngoài ra, để giúp các cơ quan ban hành các văn bản tố tụng thực hiện được việc cấp, tống đạt or thông báo văn bản tố tụng thì ủy ban nhân dân cấp xã nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú or cơ quan, tổ chức nơi ng tha gia tố tung dân sự làm việc; đương sự, người đại diện của đường sự or người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; nhân viên bưu điện và những người khác khi được tòa án yêu cầu or pháp luật có quy định cũng có nghĩa vụ thực hiện cấp, tống đạt or thông báo văn bản tố tụng( điều 148 BLTTDS).
►Như vậy, không chỉ người tiến hành tố tụng dân sự mới có nghĩa vụ thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo. Mà trong một số trường hợp khi được Tòa án yêu cầu or pháp luật có quy định thì các đối tượng khác cũng có nghĩa vụ thực hiện cấp, tống đạt or thông báo văn bản tố tụng.
      ……………………………………………..
11.                       Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo các văn bản tố tụng trực tiếp cho cá nhân thì văn bản phải được giao trực tiếp cho các nhân đó trong mọi trường hợp.
Trả lời: Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
+ theo quy định tại điều 151 BLTTDS: thủ tục cấp, tống đạt or thông báo trực tiếp: “Người thực hiện việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho người được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng có liên quan. Người được cấp, tống đạt hoặc thông báo phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận văn bản tố tụng. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ được cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng”.
+ Và điều 152 BLTTDS quy định thủ tục cấp, tống đạt or thông báo trực tiếp cho cá nhân: trong trường hợp người được cấp, tống đạt or thông báo là cá nhân thì văn bản cần cấp, tống đạt or thông báo được trực tiếp chuyển giao cho cá nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp người được cấp, tống đạt or thông báo vắng mặt thì văn bản tố tụng cần cấp, tống đạt or thông báo có thể được giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với họ và yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt, thông báo.
   + nếu người được cấp, tống đạt or thông báo  không có người thân thích có đủ năng lục hành vi dân sự cùng cư trú or có nhưng họ không chịu nhận hộ văn bản tố tụng thì có thể chuyển giao văn bản đó cho tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, khóm, buôn, phum, sóc, ủy ban nhân dân, công an phường, xã, thị trấn nơi người được cấp, tống đạt or  thông báo cư trú và yêu cầu những người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt or thông báo.
►Như vậy, không phải trong mọi trường hợp việc cấp, tống đạt hoặc thông báo các văn bản tố tụng trực tiếp cho cá nhân thì văn bản phải được giao trực tiếp cho các nhân đó. Mà trong một số trường hợp khi người đó văng mặt thì việc cấp, tống đạt or thông báo các văn bản có thể giao cho người thân thích của họ cùng cu trú or 1 số cơ quan ở đại phương.
12.                       Đương sự có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án dân sự.
Theo em, khẳng định trên là đúng, bởi vì: điều 163, NQ 05
+ phạm vi khởi kiện vụ án dân sự là giới hạn những vấn đề khởi kiện trong một vụ án dân sự.
+ để đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án được nhanh chóng và đúng đắn, Điều 163 BLTTDS quy định về phạm vi khởi kiện.
+ theo điều k1,2 163 quy định:
“1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
2. Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án”.
► như vậy, Đương sự có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án dân sự.
…………………………………………….








13.                       Trong một số trường hợp, sau khi sự việc đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đương sự vẫn có quyền khởi kiện lại.
Theo e, khẳng định trên là đúng, bởi vì:
+ ………………………..
14.                       Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự khi người khởi kiện nộp đơn kèm theo đơn khởi kiện đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
+ theo điều 165 BLTTDS quy định: Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện: “Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”.
Như vậy, khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện phải gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp.
+ Tuy nhiên, theo điều 6 nghị quyết 05/2012/NQ – HĐTP quy định: Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện quy định tại Điều 165 của BLTTD:
“Về nguyên tắc, khi gửi đơn khởi kiện cho Toà án, người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan nên họ không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án”.
Như vậy, trong một số trường hợp vì lý do khách quan, người khởi kiện có thể chưa nộp ngay đầy đủ các tài liệu, cứng cứ, họ chỉ cần nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ thi nhưng tòa án vẫn thụ lý vụ án đó. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án.
15.                       Khi chưa thụ lý vụ án mà Tòa án đã nhận đơn phát hiện sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác thì Tòa án đã nhận đơn trả lại đơn khởi kiện.
Theo em, khẳng định trên là sai, vì:
………………………………..
+ Theo khoản 2 Diều 167 BLTTDS quy định: “2. Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác”.
Như vậy, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác, thì Tòa án phải chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện.
+ ………………………











16.                       Khi chưa thụ lý vụ án dân sự nếu Tòa án nhận đơn khởi kiện phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Tòa này sẽ chuyển đơn khởi kiện cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
Sai, bởi vì:
+ ……………………..
17.                       Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự vào ngày người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
+  để đảm bảo việc khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự có căn cứ pháp luật quy định nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí. Theo đó, những người có yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự đều phải nộp tiền tạm ứng án phí.
+ theo quy định k1,2  tại Điều 171 BLTTDS:  
“1. Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
2. Toà án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí”.
Theo đó, khi có yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự thì người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Đây là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng dân sự.
+ Và theo khoản 3 điều 171 BLTTDS quy định: “3. Toà án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí”. Do đó, chỉ khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tmaj ứng án phí thì Tòa án mới thụ lý vụ án.
+ Tuy nhiên, trog trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
 “4. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo” (khoản 4 điều 171).
► Như vậy, không phải Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự vào ngày người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí……
18.                       Không phải trong mọi trường hợp nếu Tòa án đã giải quyết vụ án dân sự bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền khởi kiện lại nữa.
Theo em, khẳng định trên là đúng, bởi vì:
+ ………………………….
19.                       Chỉ có cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự.
Trả lời: theo em, khẳng định trên là sai, bởi vì:
+ Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể. Nó cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
+ theo điều 161 BLTTDS quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Như vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình khởi kiện or thông qua người đại diện hợp pháp của họ.
+ đồng thời, theo điều 162 BLTTDS quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích cả Nhà nước. Theo đó, Nhà nước chính thức xác nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự của các chủ thể khác như cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, công đoàn…trong việc khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
-cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, liê hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện về vụ án hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định.
-Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
-Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
► Như vậy, không chỉ có cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự; mà các chủ thể khác như cơ quan, dân số, gia đình và trẻ em, công đoàn…cũng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
20.                       Tòa án chỉ tiến hành biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ trong trường hợp đương sự có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp này.
Trả lời: theo em khẳng định trên là sai, vì:
+ Việc xem xét, thẩm định tại chỗ là biện pháp thu thập chứng cứ được tiến hành trong trường hợp tài sản tranh chấp, vật chứng không thể mang đến Tòa án xem xét được. Qua việc xem xét, thẩm định tại chỗ giúp cho Tòa án có nhận thức đúng, toàn diện về sự việc.
+ theo khoản 1 điều 89 BLTTDS quy định về xem xét, thẩm định tại chỗ: “1. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó”.
Theo đó, Luật không quy định Tòa án chỉ tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ khi có yêu cầu của đương sự.
+ và theo khoản 1 điều 9 nghị quyết 04/2012/nq – hđtp quy định: “1. Khi đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy việc xem xét,thẩm định tại chỗ là cần thiết cho việc giải quyết đúng vụ án, thì Thẩm phán ra quyết định tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ”.

► Như vậy, Tòa án không chỉ tiến hành biện pháp xem xét, thẩm định tại chỗ trong trường hợp đương sự có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp này; mà khi xét thấy việc xem xét, thẩm định tại chỗ là cần thiết cho việc giải quyết vụ án thì Tòa án sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét