TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.
Luật tố tụng dân sự chỉ
quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Ø Sai. Luật TTDS không phải chỉ quy định trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án dân sự. Vì Theo quy định tại Điều 1 BLTTDS 2004 (sđ, bx 2011)
thì: Luật TTDS quy định về trình tự thủ
tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án dân sự; trình tự, thủ tục yêu cầu
để Tòa án giải quyết việc dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự và
việc dân sự (gọi chung là vụ việc dân sự) tại TA và thi hành án dân sự.
Như vậy, theo
quy định này thì LTTDS không chỉ quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ án
dân sự mà còn quy định về trình tự thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án và
thi hành án dân sự.
2.
Chỉ quan hệ giữa Tòa án
với đương sự phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án và được quy phạm pháp
luật tố tụng dân sự điều chỉnh mới là quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Sai. Đối tượng
điều chỉnh của Luật TTDSVN là các quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA, đương sự, người
đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và
những người liên quan phát sinh trong TTDS. Theo đó, đối tượng điều chỉnh của
LTTDS bao gồm: quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA với đương sự, người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch và những người liên quan; Quan hệ giữa TA, VKS,
CQTHA với nhau; Quan hệ giữa đương sự với những người liên quan.
Quan hệ PLTTDS
là quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA, ĐS, Người đại diện của ĐS, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch và những người liên quan phát sinh trong TTDS
và được các QPPL TTDS điều chỉnh.
Như vậy, quan
hệ PLTTDS không chỉ bao gồm quan hệ giữa
tòa án với đương sự mà còn bao gồm cả quan hệ giữa VKS, CQTHA, người đại diện
của đương sự, người làm chứng,….. Do đó, khẳng định trên là sai.
3.
Việc sơ thẩm tất cả các vụ
việc dân sự đều phải có hội thẩm nhân dân tham gia.
Sai.Vụ việc
dân sự là các vụ việc phát sịnh từ QHPLDS, hôn nhân và gia đình, KD, TM và LĐ
do Tòa án giải quyết. Vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Căn cứ theo
quy định tại Điều 52 BLTTDS năm 2004 quy
định: “ Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm
nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai
Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”.
Theo khoản 2 Điều
55 BLTTDS 2004 thì thành phần giải quyết việc dân sự có thể không có Hội Thẩm
tham gia.
Thực hiện chế
độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia là tạo điều kiện cho mọi người tham gia
vào công việc của NHà nước, bảo đảm thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự và
tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết đúng vụ án dân sự. Ngoài ra, việc tham gia
xét xử vụ án dân sự có hội thẩm còn được phát huy tác dụng giáo dục của phiên
tòa, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người. Thục hiện chết độ xét xử có hội
thẩm tham gia được quy định là một nguyên tắc cơ bản của TTDS.
Như vậy, không
phải trong mọi trường hợp việc sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự đều cần phải
có Hội thẩm tham gia.
4.
Mọi phiên tòa xét xử các
vụ án dân sự phải được Tòa án tiến hành công khai.
Sai. Theo Khoản 2 Điều 15 BLTTDS quy định: “Trong trường hợp đặc
biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí
mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu
chính đáng của đương sự thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai”. Như
vậy không phải mọi trường hợp phiên tòa xét xử các vụ án dân sự phải được tiến
hành công khai, trong một số trường hợp Tòa án xét xử kín.
5.
Việc sơ thẩm tất cả các vụ
việc dân sự đều phải đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể.
Sai.Theo điều 14 BLTTDS 2004 quy định: “Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số”. Việc
giải quyết vụ án dân sự có nhiều phức tạp, đòi hỏi cán bộ đảm nhiệm công việc
này phải có trình độ chuyện môn, nghiệp vụ nhất định, thận trọng, khách quan và
công bằng trong giải quyết. Việc xét xử vụ án bằng một tập thể sẽ góp phần giải
quyết được những khó khăn, hạn chế, những sai xót trong công tác xét xử.
Theo quy định
này thì đối với vụ án dân sự thì cần phải đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể,
còn đối với việc dân sự có thể không đảm bảo được nguyên tắc này. Đó là trường
hợp quy định tại khoản 2 điều 55 BLTTDS: “2. Những yêu cầu về DS, hôn nhân…… do
một thẩm phán giải quyết”.
Như vậy, không
phải mọi trường hợp Việc sơ thẩm các vụ việc dân sự đều đảm bảo nguyên tắc xét
xử tập thể.
6.
Mọi vụ việc dân sự đều
phải trải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Sai.Tòa án xét
xử theo hai cấp có ý nghĩa quan trọng, vừa đảm bảo cho tòa án xét xử đúng vụ án
dân sự vừa đảm bảo cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trước tòa án. Đây là nguyên tắc của LTTDS.Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp
các vụ việc dân sự đều phải trải quan hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Điều 17 BLTTDS
quy định: “… Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm….”.
Đồng thời, Điều
316 BLTTDS quy định: “người yêu cầu……”. Quyết định giải quyết việc dân sự bị
kháng cáo, kháng nghị thì được Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo
thủ tục phúc thẩm.
Theo hai quy
định trên thì những bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị phải xét xử
theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong thời hạn luật định thì bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh đó,
Điều 188 BLTTDS quy định: “Quyết định công nhận sự thỏa thuận …..” Theo đó,
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không bị kháng cáo, kháng nghị
mà có hiệu lực pháp luật ngay.Ví dụ: công nhận thuận tình ly hôn.
Như vậy, không
phải trong mọi trường hợp vụ việc dân sự đều phải trải qua hai cấp sơ thẩm và
phúc thẩm.Vụ việc dân sự phải trải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.Nếu bản án, quyết định không bị
kháng cáo, kháng nghị thì không phải xét xử theo thủ tục phúc thẩm và trong
trường hợp quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp
luật ngay không được kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
7.
Tòa án có trách nhiệm hòa
giải đối với tất cả các vụ việc dân sự.
Sai.Điều 10
BLTTDS quy định: “Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi…”.Thông
qua hòa giải tòa án có thể giải quyết vụ án dân sự mà không nhất thiết phải
thông qua việc xét xử. Do đó, trách nhiệm hòa giải của Tòa án được pháp luật
quy định là một nguyên tắc cơ bản của TTDS. Tuy nhiên, Tòa án không có trách
nhiệm hòa giải tất cả các vụ việc dân sự.
Điều 181, Điều
182 BLTTDS quy định về các trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải và không
hòa giải được.
8.
Viện kiểm sát nhân dân
phải tham gia tất cả các phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Sai. Viện kiểm
sát thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ
thể trong việc tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng. Khi thực hiện quyền hạn của
mình VKS được sử dụng những biện pháp mà pháp luật quy định để bảo đảm việc
kiểm sát của mình.
Khoản 2 Điều 21
quy định: “VKSND tham gia các ….” Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân tham gia
phiên tòa sơ thẩm đối với việc dân sự, phiên tòa đối với vụ án dân sự do Tòa án
thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng,
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người CTN, người có nhược
điểm về thể chất và tâm thần.
Như vậy, đối
với những phiên tòa sơ thẩm thì VKS chỉ tham gia trong một số trường hợp. Đó là
phiên tòa sơ thẩm đối với việc dân sự, đối với vụ án dân sự trong một số cụ thể
do luật quy định.
9.
Thỏa thuận của các đương
sự về việc giải quyết tranh chấp trong mọi trường hợp đều được Tòa án công
nhận.
Sai.Khoản 2
Điều 5 BLTTDS quy định: “Trong quá trình …..”. Tòa án chỉ công nhận khi thỏa
thuận này là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp được ghi nhận
trong Khoản 2 Điều 188, Khoản 1 Điều 220 và điều 270 BLTTDS.
Đối với hiệu
lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Nếu thỏa thuận của
các đương sự là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội sẽ quyết định công nhận thỏa thuận đó sẽ bị kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm. (Khoản 2 Điều 188).
Đối với công
nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòasơ thẩm: Thỏa thuận này của các
đương sự được Hội đồng xét xử công nhận khi thỏa thuận là tự nguyện, không trái
pháp luật và đạo đức xã hội. (Khoản 1 Điều 220)
Công nhận thỏa
thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Nếu tại phiên tòa phúc thẩm các
đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và các thỏa
thuận này là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì được hội
đồng xét xử phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận.(Khoản 1 Điều 270).
Như vậy, không
phải mọi trường hợp thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp
đều được tòa án công nhận. Thỏa thuận này được công nhân khi thỏa thuận là tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
10.
Đương sự có nghĩa vụ nhờ
người bảo vệ quyền lợi cho mình trong tất cả các vụ việc dân sự.
Sai.Bảo vệ
quyền lợi của đương sự là quyền của các đương sự trong vụ việc dân sự chứ không
phải là nghĩa vụ của đương sự.Đương sự chỉ có thể bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của mình khi thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ.Quyền
bảo vệ của đương sự được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của LTTDS.
Theo Điều 9
BLTTDS quy định: “đương sự….”.ĐƯơng sự có thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình hoặc ủy quyền, nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Pháp luật TTDS
cũng ghi nhận đây là một quyền của đương sự tại Điểm i, Khoản 2 Điều 58 BLTTDS:
“Tự bảo vệ….”.
Những người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và
được Tòaán chấp nhận. Những người này bao gồm: Luật sư, trợ giúp viên pháp lý
và người tham gia trợ giúp pháp lý, công dân VN … (Điều 63 BLTTDS).
Như vậy, đương
sự có quyền tự mình bảo vệ quyền lợi của mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền
lợi cho mình.Bảo vệ quyền lợi cho đương sự là quyền của đương sự không phải là
nghĩa vụ nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình trong vụ việc dân sự.
11.
Các tranh chấp về KD,TM thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án chỉ là các tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tổ chức có đăng
kí kinh doanh và đều nhằm mục đích lợi nhuận.
Sai.Theo Điều
29 BLTTDS thì các tranh chấp về KD, TM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
bao gồm: các tranh chấp phát sinh trong hoạt động KD, TM giữa các cá nhân, tổ
chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về
quyền SHTT, chuyển giao công nghệ với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, … Tuy nhiên, theo Khoản 4
Điều 6 NQ 03/2012 thì đối với tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì không
nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi
cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
12.
Tất cả các tranh chấp liên quan đến hoạt động
nghiệp vụ báo chí đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố
tụng dân sự.
Sai.Các tranh
chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí bao gồm nhiều loại.Tuy nhiên, không phải
mọi tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí đều thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án, chỉ những tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí mà pháp luật
quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như các tranh chấp về việc
không đăng bài cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của công
dân, tranh chấp về bồi thường thiệt hại,,… Các tranh chấp này được quy định
trong Luật báo chí 1989 và luật sửa đổi, bổ sung luật báo chí năm 1999.
Ví dụ: Điều 1
Luật sửa đổi, bổ sung luật báo chí quy định: “Trong trường hợp cơ quan
báo chí không cải chính, xin lỗi hoặc cải chính, xin lỗi không đúng các quy
định của Luật này, không đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì
tổ chức, cá nhân đó có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án”.
13.
Không phải mọi tranh chấp về quyền sử dụng đất
đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đúng.Quyền sử
dụng đất là loại tài sản đặc biệt. Do vậy, các tranh chấp về quyền sử dụng đất cũng
là một dạng của tranh chấp về tài sản. quyền sử dụng đất được coi là tài sản và
được pháp luật bảo hộ nếu như người sử dụng đất có đầy đủ giấy tờ cần thiết
chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của mình.
Điều 136 Luật
đất đai 2003 quy định: “… Tranh chấp về quyền
sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong
các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”.
Bên cạnh
đó, Khoản 3 Điều 8 NQ 05/2012 quy định:“Khi
xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự mà đối tượng khởi kiện là quyền sử
dụng đất thì thực hiện như sau:
a) Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến
hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp
theo quy định tại Điều 135 của Luật Đất đai.
b) Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như:
tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế
quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì
không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
đất tranh chấp nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà giải theo quy định của
BLTTDS”. Theo
quy định này thì trước khi khởi kiện ra Tòa án cần phải được hòa giải. Nếu hòa
giải thành thì Tòa án không giải quyết.
Như vậy, không
phải mọi tranh chấp về quyền sử dụng đất đều thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
14.
Mọi yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc xác
định con cho cha mẹ đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố
tụng dân sự.
Sai.Theo Điều
27 và 28 BLTTDS thì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về xác định
cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ. Việc yêu cầu xác định cha, mẹ
cho con và xác định con cho cha, mẹ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án theo Thủ tục tố tụng dân sự.
15.
Không phải tất cả các tranh chấp phát sinh từ
hoạt động kinh doanh, thương mại đều thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
theo thủ tục tố tụng dân sự.
Sai. Các vụ
việc phát sinh từ hoạt động kinh doanh thương mại rất đa dạng về phức tạp, các
bên có thể tự lựa chọn phương thức giải quyết bằng con đường trọng tài hoặc
khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các tranh chấp
về KD, TM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục TTDS đượcq uy
định tại Điều 29 BLTTDS. Các tranh chấp gồm: Tranh chấp phát sinh trong hoạt
động KD, TM giữa cá nhân,…. Ngoài ra, tòa án cũng có thẩm quyền thụ lý giải
quyết theo thủ tục TTDS các việc liên quan đến trọng tài Thương mại VN như yêu
cầu, chỉ định, thay đổi trọng tài viên; yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp,…
Bên cạnh đó,
các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài. Việc
giải quyết các tranh chấp theo thủ tục trọng tài phải tuân theo các quy định
của luật Trọng tài 2010.
Như vậy, Tòa
án chỉ giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động KD, TM theo thủ tục
TTDS trong một số trường hợp pháp luật quy định.
15. không phải tất cả các tranh chấp phát sinh từ
hoạt động kinh doanh, thương mại đều thuộc thẩm quyền giải quyết của
tòa án theo thủ tục TTDS.
Đúng. Theo quy định tại Điều
29 BLTTDS 2004 thì tòa án có thẩm
quyền giải quyết những tranh chấp về kinh doanh thương mại sau: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận bao gồm:
a) Mua bán
hàng hoá;
b) Cung ứng
dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện,
đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho
thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ
thuật;
i) Vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ
phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài
chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò,
khai thác.
1.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2.
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của
công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập,
hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty.
3.
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà
pháp luật có quy định.”
Như vậy, với những tranh chấp nằm ngoài quy định tại
điều 29 BLTTDS thì không thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
tòa án. Mặt khác, các bên có thể tự do thỏa thuận để giải quyết
các tranh chấp theo thủ tục trọng tài được quy định tại Điều 5 luật trọng tài thương mại 2010: “Điều kiện giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài
1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp.”
16. tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục
TTDS tất cả các tranh chấp lao động tập thể về quyền và lợi ích.
Sai. Theo quy định tại
khoản 1 điểm c Điều 203 BLLĐ 2012 quy định tòa án nhân dân có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền nhưng lại không có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động về lợi ích. Những tranh
chấp lao động tập thể về lợi ích sẽ do hòa giải viên lao động và
hội đồng trọng tài lao động giải quyết.
Theo quy định tại điều 31 BLTTDS về Những
tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: “
1.
Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động
với người sử dụng lao động mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên
lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, hòa giải không thành hoặc không hòa giải trong thời hạn do pháp
luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hòa giải
tại cơ sở:
a) Về xử lý kỷ
luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động;
b) Về bồi
thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ cấp khi
chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người
giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm
xã hội theo quy định của pháp luật về lao động;
đ) Về bồi
thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
2.
Tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể
lao động với người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động đã
được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải
quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết
định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh hoặc
quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh không giải quyết.
3.
Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có
quy định.”
Tại điều 205 BLLĐ 2012
cũng quy định : “Điều 205. Giải
quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải
tiến hành giải quyết tranh chấp lao động.
2. Tại phiên họp giải quyết tranh chấp lao động
phải có đại diện của hai bên tranh chấp. Trường hợp cần thiết, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan tham dự phiên họp.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện căn cứ vào
pháp luật về lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng
ký và các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác để xem xét giải quyết tranh chấp
lao động.
3.Trong trường hợp các bên không đồng ý với
quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết.”
Như vậy, không phải tất cả các tranh chấp lao
động tập thể về quyền và lợi ích đều do tòa án giải quyết theo
thủ tục TTDS mà tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết với các TCLĐ
tập thể về quyền mà không có thẩm quyền giải quyết với các TCLĐTT
về lợi ích. Mặt khác, một số trường hợp các TCLĐTT về quyền còn do
chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. VD:
17. tất cả các vụ việc dân sự
mà có đương sự ở nước ngoài đều thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Sai. theo điều 7 khoản 2 nghị
quyết 03/2012: Đối với yêu cầu huỷ việc kết
hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ
giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng
giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản
3 Điều 102 của Luật Hôn nhân và Gia đình là thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.
Điều 7 khoản 5 Nghị quyết 03/2012:” 5. Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án
a) Đối với vụ việc
dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33
của BLTTDS; được
hướng dẫn tại các khoản1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân
dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết
mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ
thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ởnước
ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì
theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
b) Đối với vụ việc
dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của
BLTTDS và được hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp
tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự
thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư
pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài,
cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì
theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự đó.”
(
đương sự ở nước ngoài được quy định tại Điều 7 khoản 1 Nghị quyết
03/2012: “ Đương sự là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học
tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm
Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;”
18. Trong một số trường hợp thì
Tòa án cấp tỉnh có thể lấy những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền
sơ thẩm của Tòa án cấp huyện lên để giải quyết.
Đúng.Theo điều 34
khoản 2 BLTTDS: “Điều 34. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương
2. Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp
huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên
để giải quyết.”
(T tìm trong giáo trình trang 66
với 68 k thấy giải thích)
19. Trong một số trường hợp thì
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự
có đương sự là người nước ngoài.
Đúng.
Theo quy định tại Điều 7 khoản 2 Nghị quyết 03/2012/NQ- HĐTP hướng dẫn…
thì Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái
pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công
dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng
cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102
của Luật Hôn nhân và Gia đình là thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.Như
vậy, với các vụ việc dân sự tại khu vực biên giới liên quan tới
người nước ngoài thì tòa án nhân dân huyện có thẩm quyền giải
quyết.
Mặt
khác, Tại khoản 5 Nghị quyết 03/2012 cũng quy định về các trường hợp
Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án:”
a) Đối với vụ việc
dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33
của BLTTDS; được
hướng dẫn tại các khoản1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân
dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết
mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ
thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ởnước
ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì
theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
b) Đối với vụ việc
dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của
BLTTDS và được hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp
tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự
thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư
pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài,
cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì
theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự đó.”
20. mọi vụ việc dân sự mà có
đương sự là người nước ngoài đều thuộc thẩm quyền xét sử sơ thẩm
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Sai.
Theo quy định tại Điều 7 khoản 2 Nghị quyết 03/2012/ NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ nhất “ những quy định chung” của bộ luật TTDS đã được
sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
thì: “Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái
pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công
dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng
cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102
của Luật Hôn nhân và Gia đình là thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.”
Tại khoản 5, điều 7 Nghị quyết 03/2012 cũng quy
định: “về các trường hợp Không
thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án:”
a) Đối với vụ việc
dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33
của BLTTDS; được
hướng dẫn tại các khoản1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân
dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết
mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ
thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ởnước
ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì
theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp
tục giải quyết vụ việc dân sự đó.”
Như vậy, không phải mọi vụ việc dân sự có
đương sự nước ngoài đều thuộc thẩm quyền xét xử sở thẩm của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh mà những vụ việc dân sự có đương sự là người
nước ngoài cư trú tại khu vực biên giới thì thuộc thẩm quyền của
tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tình nơi cư trú
của người đó hay các trường hợp thuộc điểm a khoản 5 điều 7 Nghị
quyết 03/2012 cũng do TACH giải quyết.
Ví dụ: A là người nước ngoài, kết hôn
với công dân việt nam tại khu vực biên giới giwuax việt nam – lào, khi
làm thủ tục kết hôn sẽ do tòa cấp huyện giải quyết.
Vd:
a là người nước ngoài, cư trú, học tập tại việt nam. Có mặt tại
thời điểm tòa thụ lý vụ án sẽ do tòa cấp huyện xét xử. Trường
hợp quy định tại điểm d khoản 1 điều 7 nghị quyết 03/2012 A là người
nước ngoài, cư trú tại việt nam nhưng không có mặt tại vn tại thời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét