Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

CÂU HỎI ÔN TẬP TỐ TỤNG DÂN SỰ


TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.     Luật tố tụng dân sự chỉ quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Ø Sai. Luật TTDS không phải chỉ quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Vì Theo quy định tại Điều 1 BLTTDS 2004 (sđ, bx 2011) thì:  Luật TTDS quy định về trình tự thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án dân sự; trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự (gọi chung là vụ việc dân sự) tại TA và thi hành án dân sự.
Như vậy, theo quy định này thì LTTDS không chỉ quy định về trình tự thủ tục giải quyết vụ án dân sự mà còn quy định về trình tự thủ tục giải quyết việc dân sự tại Tòa án và thi hành án dân sự.
2.     Chỉ quan hệ giữa Tòa án với đương sự phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án và được quy phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh mới là quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Sai. Đối tượng điều chỉnh của Luật TTDSVN là các quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA, đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và những người liên quan phát sinh trong TTDS. Theo đó, đối tượng điều chỉnh của LTTDS bao gồm: quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA với đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và những người liên quan; Quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA với nhau; Quan hệ giữa đương sự với những người liên quan.
Quan hệ PLTTDS là quan hệ giữa TA, VKS, CQTHA, ĐS, Người đại diện của ĐS, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và những người liên quan phát sinh trong TTDS và được các QPPL TTDS điều chỉnh.
Như vậy, quan hệ PLTTDS  không chỉ bao gồm quan hệ giữa tòa án với đương sự mà còn bao gồm cả quan hệ giữa VKS, CQTHA, người đại diện của đương sự, người làm chứng,….. Do đó, khẳng định trên là sai.
3.     Việc sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự đều phải có hội thẩm nhân dân tham gia.
Sai.Vụ việc dân sự là các vụ việc phát sịnh từ QHPLDS, hôn nhân và gia đình, KD, TM và LĐ do Tòa án giải quyết. Vụ việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Căn cứ theo quy định tại Điều 52 BLTTDS  năm 2004 quy định: “ Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”.
Theo khoản 2 Điều 55 BLTTDS 2004 thì thành phần giải quyết việc dân sự có thể không có Hội Thẩm tham gia.
Thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia là tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào công việc của NHà nước, bảo đảm thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự và tạo điều kiện cho Tòa án giải quyết đúng vụ án dân sự. Ngoài ra, việc tham gia xét xử vụ án dân sự có hội thẩm còn được phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người. Thục hiện chết độ xét xử có hội thẩm tham gia được quy định là một nguyên tắc cơ bản của TTDS.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp việc sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự đều cần phải có Hội thẩm tham gia.
4.     Mọi phiên tòa xét xử các vụ án dân sự phải được Tòa án tiến hành công khai.
Sai. Theo Khoản 2 Điều 15 BLTTDS quy định: “Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai”. Như vậy không phải mọi trường hợp phiên tòa xét xử các vụ án dân sự phải được tiến hành công khai, trong một số trường hợp Tòa án xét xử kín.
5.     Việc sơ thẩm tất cả các vụ việc dân sự đều phải đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể.
Sai.Theo điều 14 BLTTDS 2004 quy định: “Tòa án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số”. Việc giải quyết vụ án dân sự có nhiều phức tạp, đòi hỏi cán bộ đảm nhiệm công việc này phải có trình độ chuyện môn, nghiệp vụ nhất định, thận trọng, khách quan và công bằng trong giải quyết. Việc xét xử vụ án bằng một tập thể sẽ góp phần giải quyết được những khó khăn, hạn chế, những sai xót trong công tác xét xử.
Theo quy định này thì đối với vụ án dân sự thì cần phải đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể, còn đối với việc dân sự có thể không đảm bảo được nguyên tắc này. Đó là trường hợp quy định tại khoản 2 điều 55 BLTTDS: “2. Những yêu cầu về DS, hôn nhân…… do một thẩm phán giải quyết”.
Như vậy, không phải mọi trường hợp Việc sơ thẩm các vụ việc dân sự đều đảm bảo nguyên tắc xét xử tập thể.
6.     Mọi vụ việc dân sự đều phải trải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Sai.Tòa án xét xử theo hai cấp có ý nghĩa quan trọng, vừa đảm bảo cho tòa án xét xử đúng vụ án dân sự vừa đảm bảo cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước tòa án. Đây là nguyên tắc của LTTDS.Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp các vụ việc dân sự đều phải trải quan hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Điều 17 BLTTDS quy định: “… Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm….”.
Đồng thời, Điều 316 BLTTDS quy định: “người yêu cầu……”. Quyết định giải quyết việc dân sự bị kháng cáo, kháng nghị thì được Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Theo hai quy định trên thì những bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị phải xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn luật định thì bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh đó, Điều 188 BLTTDS quy định: “Quyết định công nhận sự thỏa thuận …..” Theo đó, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không bị kháng cáo, kháng nghị mà có hiệu lực pháp luật ngay.Ví dụ: công nhận thuận tình ly hôn.
Như vậy, không phải trong mọi trường hợp vụ việc dân sự đều phải trải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.Vụ việc dân sự phải trải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm khi bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.Nếu bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị thì không phải xét xử theo thủ tục phúc thẩm và trong trường hợp quyết định công nhân sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay không được kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
7.     Tòa án có trách nhiệm hòa giải đối với tất cả các vụ việc dân sự.
Sai.Điều 10 BLTTDS quy định: “Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi…”.Thông qua hòa giải tòa án có thể giải quyết vụ án dân sự mà không nhất thiết phải thông qua việc xét xử. Do đó, trách nhiệm hòa giải của Tòa án được pháp luật quy định là một nguyên tắc cơ bản của TTDS. Tuy nhiên, Tòa án không có trách nhiệm hòa giải tất cả các vụ việc dân sự.
Điều 181, Điều 182 BLTTDS quy định về các trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải và không hòa giải được.
8.     Viện kiểm sát nhân dân phải tham gia tất cả các phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
Sai. Viện kiểm sát thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể trong việc tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng. Khi thực hiện quyền hạn của mình VKS được sử dụng những biện pháp mà pháp luật quy định để bảo đảm việc kiểm sát của mình.
Khoản 2 Điều 21 quy định: “VKSND tham gia các ….” Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với việc dân sự, phiên tòa đối với vụ án dân sự do Tòa án thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người CTN, người có nhược điểm về thể chất và tâm thần.
Như vậy, đối với những phiên tòa sơ thẩm thì VKS chỉ tham gia trong một số trường hợp. Đó là phiên tòa sơ thẩm đối với việc dân sự, đối với vụ án dân sự trong một số cụ thể do luật quy định.
9.     Thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp trong mọi trường hợp đều được Tòa án công nhận.
Sai.Khoản 2 Điều 5 BLTTDS quy định: “Trong quá trình …..”. Tòa án chỉ công nhận khi thỏa thuận này là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp được ghi nhận trong Khoản 2 Điều 188, Khoản 1 Điều 220 và điều 270 BLTTDS.
Đối với hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Nếu thỏa thuận của các đương sự là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội sẽ quyết định công nhận thỏa thuận đó sẽ bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. (Khoản 2 Điều 188).
Đối với công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòasơ thẩm: Thỏa thuận này của các đương sự được Hội đồng xét xử công nhận khi thỏa thuận là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. (Khoản 1 Điều 220)
Công nhận thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Nếu tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp và các thỏa thuận này là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì được hội đồng xét xử phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận.(Khoản 1 Điều 270).
Như vậy, không phải mọi trường hợp thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp đều được tòa án công nhận. Thỏa thuận này được công nhân khi thỏa thuận là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
10.                        Đương sự có nghĩa vụ nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình trong tất cả các vụ việc dân sự.
Sai.Bảo vệ quyền lợi của đương sự là quyền của các đương sự trong vụ việc dân sự chứ không phải là nghĩa vụ của đương sự.Đương sự chỉ có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ.Quyền bảo vệ của đương sự được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của LTTDS.
Theo Điều 9 BLTTDS quy định: “đương sự….”.ĐƯơng sự có thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc ủy quyền, nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp luật TTDS cũng ghi nhận đây là một quyền của đương sự tại Điểm i, Khoản 2 Điều 58 BLTTDS: “Tự bảo vệ….”.
Những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được Tòaán chấp nhận. Những người này bao gồm: Luật sư, trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý, công dân VN … (Điều 63 BLTTDS).
Như vậy, đương sự có quyền tự mình bảo vệ quyền lợi của mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình.Bảo vệ quyền lợi cho đương sự là quyền của đương sự không phải là nghĩa vụ nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình trong vụ việc dân sự.
11.                         Các tranh chấp về KD,TM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án chỉ là các tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh và đều nhằm mục đích lợi nhuận.
Sai.Theo Điều 29 BLTTDS thì các tranh chấp về KD, TM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: các tranh chấp phát sinh trong hoạt động KD, TM giữa các cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, … Tuy nhiên, theo Khoản 4 Điều 6 NQ 03/2012 thì đối với tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì không nhất thiết đòi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
12.                         Tất cả các tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Sai.Các tranh chấp liên quan đến nghiệp vụ báo chí bao gồm nhiều loại.Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, chỉ những tranh chấp liên quan đến hoạt động báo chí mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như các tranh chấp về việc không đăng bài cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của công dân, tranh chấp về bồi thường thiệt hại,,… Các tranh chấp này được quy định trong Luật báo chí 1989 và luật sửa đổi, bổ sung luật báo chí năm 1999.
Ví dụ: Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung luật báo chí quy định: Trong trường hợp cơ quan báo chí không cải chính, xin lỗi hoặc cải chính, xin lỗi không đúng các quy định của Luật này, không đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân thì tổ chức, cá nhân đó có quyền khiếu nại với cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại Tòa án”.
13.                         Không phải mọi tranh chấp về quyền sử dụng đất đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đúng.Quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt. Do vậy, các tranh chấp về quyền sử dụng đất cũng là một dạng của tranh chấp về tài sản. quyền sử dụng đất được coi là tài sản và được pháp luật bảo hộ nếu như người sử dụng đất có đầy đủ giấy tờ cần thiết chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của mình.
Điều 136 Luật đất đai 2003 quy định: “… Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”.
 Bên cạnh đó, Khoản 3 Điều 8 NQ 05/2012 quy định:“Khi xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự mà đối tượng khởi kiện là quyền sử dụng đất thì thực hiện như sau:
a) Đối với tranh chấp ai có quyền sử dụng đất thì phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 135 của Luật Đất đai.
b) Đối với tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì không phải tiến hành hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp nhưng vẫn phải thực hiện thủ tục hoà giải theo quy định của BLTTDS”. Theo quy định này thì trước khi khởi kiện ra Tòa án cần phải được hòa giải. Nếu hòa giải thành thì Tòa án không giải quyết.
Như vậy, không phải mọi tranh chấp về quyền sử dụng đất đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
14.                         Mọi yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Sai.Theo Điều 27 và 28 BLTTDS thì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ. Việc yêu cầu xác định cha, mẹ cho con và xác định con cho cha, mẹ không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo Thủ tục tố tụng dân sự.
15.                         Không phải tất cả các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại đều thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Sai. Các vụ việc phát sinh từ hoạt động kinh doanh thương mại rất đa dạng về phức tạp, các bên có thể tự lựa chọn phương thức giải quyết bằng con đường trọng tài hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các tranh chấp về KD, TM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục TTDS đượcq uy định tại Điều 29 BLTTDS. Các tranh chấp gồm: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KD, TM giữa cá nhân,…. Ngoài ra, tòa án cũng có thẩm quyền thụ lý giải quyết theo thủ tục TTDS các việc liên quan đến trọng tài Thương mại VN như yêu cầu, chỉ định, thay đổi trọng tài viên; yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp,…
Bên cạnh đó, các bên có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài. Việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục trọng tài phải tuân theo các quy định của luật Trọng tài 2010.
Như vậy, Tòa án chỉ giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động KD, TM theo thủ tục TTDS trong một số trường hợp pháp luật quy định.
15. không phải tất cả các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại đều thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo thủ tục TTDS.

Đúng.  Theo quy định tại Điều 29 BLTTDS 2004  thì tòa án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về kinh doanh thương mại sau: “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:

a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
1.   Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
2.   Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
3.   Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.”
Như vậy, với những tranh chấp nằm ngoài quy định tại điều 29 BLTTDS thì không thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án. Mặt khác, các bên có thể tự do thỏa thuận để giải quyết các tranh chấp theo thủ tục trọng tài được quy định tại Điều 5 luật trọng tài thương mại 2010: “Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.”


16. tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục TTDS tất cả các tranh chấp lao động tập thể về quyền và lợi ích.
Sai. Theo quy định tại khoản 1 điểm c Điều 203 BLLĐ 2012 quy định tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền nhưng lại không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động về lợi ích. Những tranh chấp lao động tập thể về lợi ích sẽ do hòa giải viên lao động và hội đồng trọng tài lao động giải quyết.

Theo quy định tại điều 31 BLTTDS về Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: “

1.   Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc không hòa giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
b) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động;
đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
2.   Tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không giải quyết.
3.   Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định.”
Tại điều 205 BLLĐ 2012 cũng quy định : “Điều 205. Giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động.
2. Tại phiên họp giải quyết tranh chấp lao động phải có đại diện của hai bên tranh chấp. Trường hợp cần thiết, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan tham dự phiên họp.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện căn cứ vào pháp luật về lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký và các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác để xem xét giải quyết tranh chấp lao động.
3.Trong trường hợp các bên không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Như vậy, không phải tất cả các tranh chấp lao động tập thể về quyền và lợi ích đều do tòa án giải quyết theo thủ tục TTDS mà tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết với các TCLĐ tập thể về quyền mà không có thẩm quyền giải quyết với các TCLĐTT về lợi ích. Mặt khác, một số trường hợp các TCLĐTT về quyền còn do chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết. VD:

17. tất cả các vụ việc dân sự mà có đương sự ở nước ngoài đều thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Sai. theo điều 7 khoản 2 nghị quyết 03/2012: Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Luật Hôn nhân và Gia đình là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.
Điều 7 khoản 5 Nghị quyết 03/2012:” 5. Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án
a) Đối với vụ việc dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS; được hướng dẫn tại các khoản1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ởnước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
b) Đối với vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS và được hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
( đương sự ở nước ngoài được quy định tại Điều 7 khoản 1 Nghị quyết 03/2012: “ Đương sự là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;”
18. Trong một số trường hợp thì Tòa án cấp tỉnh có thể lấy những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án cấp huyện lên để giải quyết.
Đúng.Theo điều 34 khoản 2 BLTTDS: “Điều 34. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
2. Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.”
(T tìm trong giáo trình trang 66 với 68 k thấy giải thích)
19. Trong một số trường hợp thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có đương sự là người nước ngoài.
Đúng. Theo quy định tại Điều 7 khoản 2 Nghị quyết 03/2012/NQ- HĐTP hướng dẫn… thì Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Luật Hôn nhân và Gia đình là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.Như vậy, với các vụ việc dân sự tại khu vực biên giới liên quan tới người nước ngoài thì tòa án nhân dân huyện có thẩm quyền giải quyết.
Mặt khác, Tại khoản 5 Nghị quyết 03/2012 cũng quy định về các trường hợp Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án:”
a) Đối với vụ việc dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS; được hướng dẫn tại các khoản1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ởnước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
b) Đối với vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS và được hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết có sự thay đổi không còn đương sự, tài sản ở nước ngoài và không cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.

20. mọi vụ việc dân sự mà có đương sự là người nước ngoài đều thuộc thẩm quyền xét sử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Sai. Theo quy định tại Điều 7 khoản 2 Nghị quyết 03/2012/ NQ-HĐTP  hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “ những quy định chung” của bộ luật TTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì: “Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha, mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, thì theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Luật Hôn nhân và Gia đình là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam.”
Tại khoản 5, điều 7 Nghị quyết 03/2012 cũng quy định: “về các trường hợp Không thay đổi thẩm quyền giải quyết của Tòa án:”
a) Đối với vụ việc dân sự không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 33 của BLTTDS; được hướng dẫn tại các khoản1, 2, 3 và 4 Điều này và được Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, nếu trong quá trình giải quyết mới có sự thay đổi, như có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ởnước ngoài, cho Tòa án, Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, thì theo quy định tại Điều 412 của BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự đó.
Như vậy, không phải mọi vụ việc dân sự có đương sự nước ngoài đều thuộc thẩm quyền xét xử sở thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh mà những vụ việc dân sự có đương sự là người nước ngoài cư trú tại khu vực biên giới thì thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tình nơi cư trú của người đó hay các trường hợp thuộc điểm a khoản 5 điều 7 Nghị quyết 03/2012 cũng do TACH giải quyết.
Ví dụ: A là người nước ngoài, kết hôn với công dân việt nam tại khu vực biên giới giwuax việt nam – lào, khi làm thủ tục kết hôn sẽ do tòa cấp huyện giải quyết.
Vd: a là người nước ngoài, cư trú, học tập tại việt nam. Có mặt tại thời điểm tòa thụ lý vụ án sẽ do tòa cấp huyện xét xử. Trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 điều 7 nghị quyết 03/2012 A là người nước ngoài, cư trú tại việt nam nhưng không có mặt tại vn tại thời 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét