ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh của nền
kinh tế, đời sống con người cũng ngày một nâng cao. Con người quan tâm hơn tới
việc tham gia vào các hợp đồng bảo hiểm để đề phòng rủi ro cho bản thân cũng
như cho tài sản có thể xảy ra trong tương lai. Trong giai đoạn kinh tế gặp nhiều
khó khăn như thời gian hiện nay, số lượng hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ nói riêng vẫn có xu hướng tăng. Số
lượng hợp đồng khai thác mới trong 09 tháng 2011 đạt mức tăng trưởng cao với
620.669 hợp đồng (sản phẩm chính), tăng 8,63% so với cùng kỳ năm ngoái trong đó
Prudential khai thác được 229.665 hợp đồng, Bảo Việt Nhân thọ là 108.965 hợp đồng,
Manulife là 67.571 hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm mà đối tượng
của nó là tuổi thọ của con người. Có thể nói, trong các loại bảo hiểm thì đối
tượng của bảo hiểm nhân thọ là phức tạp nhất. Vì vậy, vấn đề tuổi trong giao kết
và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cần đặc biệt được quan tâm.
Luật kinh doanh
bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đã nêu ra khái niệm khá cụ thể tại
khoản 1 điều 12 như sau:
“ Hợp đồng bảo hiểm là
sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm.”
Luật
kinh doanh bảo hiểm tuy không đưa ra một quy định riêng biệt cho hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ, nhưng có thể định nghĩa hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như sau: “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là sự thoả thuận
giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm về việc doanh nghiệp bảo hiểm
cam kết bảo hiểm cho tuổi thọ của bên được bảo hiểm, theo đó, bên mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm và tương ứng doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền cho người
được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc
chết trong thời hạn thoả thuận”. Có thể thấy, định nghĩa này đã nêu một
cách khái quát nhất về khái niệm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Là một dạng của hợp
đồng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mang những đặc điểm của hợp đồng bảo
hiểm nói chung và có những điểm riêng biệt đặc trưng của loại hình hợp đồng bảo
hiểm này.
Thứ
nhất, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là tuổi thọ của con người – đặc trưng cơ bản nhất của hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ.
Thứ
hai, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng dài hạn. Khác với hợp đồng tài sản, thường là hợp
đồng ngắn hạn với thời hạn thường là 1 năm, thời hạn ngắn nhất của hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ thường là 5 năm. Ví dụ, sản phẩm bảo hiểm Phú – Trường an
(Prudential Việt Nam) có thời hạn hợp đồng là 10 – 65 năm; sản phẩm bảo hiểm
Phúc thọ phu thê (Manulife Việt Nam) có thời hạn hợp đồng là 15 năm.
Thứ
ba, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng có tính tiết kiệm. Người mua bảo hiểm sẽ đóng phí bảo hiểm
theo tháng, quý hoặc năm với một số tiền nhỏ, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc
hết thời hạn quy định trong hợp đồng, thì người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng
sẽ được nhận lại một số tiền đáng kể (thông thường nhiều hơn tổng số phí bảo hiểm
mà người mua bảo hiểm đã đóng). VỚi sản phẩm Phúc thọ phu thể của Manulife Việt
Nam, Khoản tiền tiết kiệm
bảo đảm tương đương 150% số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán cộng thêm bảo tức và lãi khi
hợp đồng đáo hạn, giúp bên được bảo hiểm (người thụ hưởng) chu toàn ước nguyện
của tuổi già.
Thứ
tư, sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không hoàn toàn gắn liền
với rủi ro xảy ra đối với người được bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm ở đây thông thường bao
gồm: người được bảo hiểm tử vong, hết hạn hợp đồng bảo hiểm,…. Khi các sự kiện
này xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng.
Thứ
năm, nội dung hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường bao gồm các điều khoản mẫu. Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, bên
doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sẵn nội dung hợp đồng. Khách hàng muốn giao kết
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì bắt buộc phải đồng ý với nội dung có sẵn của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ
sáu, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng thanh toán có định mức. Số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ thanh toán cho bên mua bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là số tiền bảo
hiểm mà bên mua bảo hiểm đã lựa chọn để ký kết hợp đồng.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có nhiều loại
khác nhau, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm, căn cứ
vào tính chất của sự kiện bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được chia thành
3 loại: hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ và
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
XEM THÊM: THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ là loại
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người được thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thoả
thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ có ba dạng chủ
yếu:
-
Bảo
hiểm có số tiền bảo hiểm được trả sau;
-
Bảo
hiểm trợ cấp trả sau;
-
Bảo
hiểm trợ cấp trả ngay.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ là loại
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
người được thụ hưởng nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ có ba dạng chủ yếu:
-
Bảo
hiểm tử kỳ tạm thời;
-
Bảo
hiểm tử kỳ trường sinh;
-
Bảo
hiểm tử kỷ có điều kiện.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả hai loại nghiệp vụ: hợp đồng bảo hiểm
sinh kỳ và hợp đổng bảo hiểm tử kỳ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp bao gồm
hai dạng:
-
Bảo
hiểm nhân thọ hỗn hợp thường;
-
Bảo
hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn.
Vấn đề tuổi trong giao kết hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ được đặt ra với hai đối tượng, bên mua bảo hiểm và bên được bảo
hiểm.
Khoản 6 điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm
quy định: “Bên mua bảo hiểm
là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và
đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng.”
Bên mua bảo hiểm là chủ thể đứng tên
trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và là người có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm.
Là một dạng của hợp đồng dân sự nói
chung, việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng cần tuân thủ các điều kiện
nhất định như trong khí kết hợp đồng dân sự. Cụ thể, bên mua bảo hiểm – chủ thể
ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ ở đây, theo quy định của Bộ luật dân sự
2005, có nghĩa là, bên mua bảo hiểm phải từ đủ 18 tuổi và không mắc các bệnh
làm hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ vô hiệu nếu
có một trong các điều kiện vô hiệu của hợp đồng. Trong đó có vấn đề điều kiện của
chủ thể ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, điều kiện về tuổi, trong trường
hợp này, có ý nghĩa quyết định tới việc có hoặc không có hiệu lực của hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ.
Khoản 7 điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm
quy định:
“ Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách
nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm
có thể đồng thời là người thụ hưởng.”
Với đặc trưng – đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
là tuổi thọ của con người nên người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ chỉ có thể là cá nhân. Hay nói cách khác, người được bảo hiểm trong hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ là cá nhân có tuổi thọ được bảo hiểm trong hợp đồng.
Luật kinh doanh bảo hiểm cũng như các văn bản khác không
giới hạn quy định về độ tuổi của người được bảo hiểm, tuy nhiên, trong trường hợp
giao kết hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 điều 34 Luật kinh doanh bảo
hiểm:
“2. Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường
hợp chết của những người sau đây:
a)
Người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó đồng
ý bằng văn bản;
b)
Người đang mắc bệnh tâm thần.”
Vấn đề tuổi của người được bảo hiểm trong
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chỉ đặt ra khi giao kết hợp đồng bảo hiểm tử kỳ hoặc
bất cứ hình thức bảo hiểm nào khác có kèm theo trường hợp chết cho người khác
theo Luật kinh doanh bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong thực tế thì việc độ tuổi
của người được bảo hiểm là vấn đề mà doanh nghiệp bảo hiểm rất lưu tâm, nó ảnh
hưởng tới việc chấp nhận hay không chấp nhận bảo hiểm cũng như mức phí của hợp
đồng bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp chỉ thích
hợp để áp dụng cho một số độ tuổi nhất định. Độ tuổi của người được bảo hiểm là
một điều kiện quan trọng để doanh nghiệp bảo hiểm đi đến quyết định có thực
hiện giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hay không.
Nghĩa vụ cung cấp thông tin, là nghĩa vụ đầu tiên và cũng
là nghĩa vụ của cơ bản khi tham gia bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng. Tuổi thọ là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, vì lẽ đó, việc
cung cấp thông tin về tuổi của người được bảo hiểm càng trở nên quan trọng hơn.
Đối tượng là tuổi thọ của con người là đối tượng không định giá được bằng tiền.
Hơn nữa, mức độ rủi ro liên quan đến tuổi thọ của người được bảo hiểm là rất
khó xác định bởi nó bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, cả khách quan
và chủ quan.
Tuổi của người được bảo hiểm là cơ sở tính phí bảo hiểm. Khi
bên mua bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách chính
xác, cụ thể là khai báo sai tuổi của người được bảo hiểm, thì tất yếu sẽ phát
sinh những hậu quả pháp lý nhất định, điều này được cụ thể hoá tại khoản 2 Điều
34 Luật kinh doanh bảo hiểm:
Thứ nhất, trong trường hợp
người mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của người được bảo hiểm, mà tuổi đúng của
người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm đã giao kết đồng thời hoàn trả số phí mà bên
mua bảo hiểm đã đóng trừ đi các chi phí có liên quan.
Thứ hai, trong trường hợp
bên mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của bên được bảo hiểm làm giảm số phí bảo
hiểm phải đóng và tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi được
bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm có
quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm đóng bổ sung số phí còn thiếu tương đương với số
tiền đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc giảm số tiền bảo hiểm đã thoả thuận
tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng.
Thứ ba, trong trường
hợp, bên mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của bên được bảo hiểm làm tăng số phí
bảo hiểm phải đóng và tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi
được bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả lại phần phí vượt quá mà bên
mua bảo hiểm đã đóng hoặc tăng số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng
bảo hiểm tương ứng với số phí bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng.
III.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH TUỔI TRONG GIAO KẾT
VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.
Những ưu điểm đạt được
Thứ nhất:
Trong các thông tin về người được bảo hiểm, độ tuổi của người được bảo hiểm được
coi là thông tin quan trọng nhất và không thể thiếu đối với mọi loại hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ. Điều 34 Khoản 1 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “ Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ phải thông báo
chính xác tuổi của người được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
để làm cơ sở tính phí bảo hiểm.”
è Quy định này là cần thiết vì theo quy luật tự nhiên cũng
như theo kết quả thống kê của hầu hết các bảng tỉ lệ tử vong cho thấy tỉ lệ tử
vong của con người tăng khi tuổi tăng ( trừ lứa tuổi từ sơ sinh đến 10 tuổi). Độ
tuổi của người được bảo hiểm do đó có ảnh hường trực tiếp đến việc đánh giá rủi
ro và ra quyết định chấp nhận bảo hiểm hay không của doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ hai: Luật
kinh doanh bảo hiểm quy định điều kiện về tuổi đối với người giao kết hợp đồng
bảo hiểm là người từ đủ mười tám (18) tuổi trở lên tại thời điểm nộp hồ sơ yêu
cầu bảo hiểm, đang cư trú tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự. Điều này là hợp
lý và thống nhất với luật chung về điều kiện giao kết hợp đồng và cũng là yếu tố
quan trọng để hợp đồng đó có hiệu lực.
Ngoài ra, Luật kinh doanh bảo hiểm cũng đề cập đến những dự
liệu trong trường hợp bên mua bảo hiểm khai sai tuổi dẫn đến việc giảm số phí bảo
hiểm phải đóng để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tăng số phí bảo
hiểm phải đóng để bảo vệ quyển lợi của của bên mua bảo hiểm.
Thứ
nhất,
Khoản 2, Điều 34 Luật KDBH đưa ra chế tài đối với bên mua bảo hiểm có
hành vi thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm là “hủy bỏ hợp đồng” nhưng lại áp dụng hai hậu quả pháp lý hoàn toàn
khác nhau và không đúng bản chất của hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 425
Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó: “1. Một
bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi
phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định. ... 3. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời
điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn
trả được bằng hiện vật, thì phải trả bằng tiền. 4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng
bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại”
Về mặt nguyên tắc, hậu quả pháp lý của hợp
đồng bị hủy bỏ cũng giống như hợp đồng vô hiệu. Nghĩa là hợp đồng coi như chưa
được giao kết, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên (đối với hợp đồng
bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại hay trả tiền bảo
hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, khách hàng không có nghĩa vụ phải đóng phí bảo
hiểm) và các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như khi chưa có hợp đồng.
Trong trường hợp này, do bên mua bảo hiểm là bên có lỗi nên họ phải bồi thường
cho doanh nghiệp bảo hiểm những chi phí hợp lý có liên quan mà doanh nghiệp phải
bỏ ra trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Vì vậy, nếu bên mua bảo
hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm thì phải chịu hậu quả pháp lý -
nhận giá trị hoàn lại nếu hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên (Khoản 2, Điều
34 Luật KDBH) là không đúng với bản chất của hợp đồng bị huỷ bỏ được quy định tại
Bộ luật Dân sự. Bởi vì, quy định việc hoàn trả giá trị hoàn lại nghĩa là đồng
thời công nhận hợp đồng bảo hiểm đó vẫn có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết đến
khi bị hủy. Và như vậy, nếu rủi ro của khách hàng xảy ra trước thời điểm hợp đồng
bị hủy doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải bồi thường thiệt hại hoặc trả tiền bảo hiểm.
Thứ hai, Khoản 2, Điều 34 Luật
KDBH thiếu những quy định về việc loại trừ trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm
đối với rủi ro của người được bảo hiểm xảy ra trước thời điểm hợp đồng bị hủy bỏ.
Mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm không phân biệt rõ việc
thông báo sai tuổi là do lỗi vô ý hay cố ý nhưng trên thực tế, về mối quan hệ gần
gũi giữa người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm, rất khó có thế tin rằng bên
mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm hoàn toàn do lỗi vô ý.
Do vậy, nếu bên mua bảo hiểm cố ý thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm
cũng chính là hành vi lừa dối nhằm giao kết hợp đồng
è Hậu quả pháp lý: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp
đồng bảo hiểm và hoàn trả cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng sau khi
trừ đi các chi phí hợp lý liên quan hoặc hoàn trả giá trị hoàn lại của hợp đồng
nếu hợp đồng đã có hiệu lực 02 năm trở lên.
Thực tế hiện nay cho thấy,rất nhiều tranh chấp xảy ra xuất
phát từ bên mua bảo hiểm cố ý khai sai tuổi của người được bảo hiểm nhằm giảm
phí bảo hiểm.
Điều 34 Khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định về hậu
quả pháp lý trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương hủy bỏ hợp đồng
do bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm là “ doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo
hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm” nếu hợp đồng đã có hiệu lực từ
hai năm trở lên. Quy định này một mặt không phù hợp với quy định tại Điều 425
BLDS về hủy bỏ hợp đồng, mặt khác chưa đảm bảo quyền được cung cấp thông tin của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Để bảo vệ thỏa đáng quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm,
có thể sửa đổi Điều 34 Khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm theo hướng: cần phân biệt
hai trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi do lỗi cố ý hoặc do lỗi vô ý
và quy định hậu quả pháp lý tương ứng với mức độ lỗi của bên mua bảo hiểm như
sau:
“ Điều 34. Thông báo
tuổi trong bảo hiểm nhân thọ.
2.Trong trường
hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhưng tuổi đúng
của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh
nghiệp có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và quyền lợi của các bên
được giải quyết như sau:
a.Nếu bên mua bảo
hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm do lỗi vô ý, doanh nghiệp bảo
hiểm phải hoàn trả cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi
các chi phí hợp lý liên quan đến giá trị hoàn lại của hợp đồng nếu hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ đã có hiệu lực từ 02 năm trở lên.
b. Nếu bên mua
bảo hiểm cố ý thông báo khai sai tuổi của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp
bảo hiểm có quyền đình chỉ hợp đồng.”
Ngoài ra, Khoản 2 Điều 34 cũng nên bổ
sung những quy định về việc loại trừ trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối
với rủi ro của người được bảo hiểm xảy ra trước thời điểm hợp đồng bị hủy bỏ.
Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo
hiểm chủ yếu dựa trên các thông tin do bên mua bảo hiểm tự kê khai để quyết định
có chấp nhận bảo hiểm hay không. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại chưa chú trọng
đến việc kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của những thông tin này dẫn đễn trường
hợp người giao kết hợp đồng khai gian tuổi của mình khi ký kết cũng như khai
gian tuổi của người sẽ được bảo hiểm mà hậu quả pháp lý có thể đưa đến việc hủy
bỏ hợp đồng. Chính vì thế mà các doanh nghiệp bảo hiểm để tránh rủi ro trong
trường hợp bên mua bảo hiểm khai sai tuổi để giảm phí bảo hiểm phải đóng nên
coi việc kiểm tra, xác minh các thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp về tuổi
của người được bảo hiểm là việc cần phải thực hiện một cách chính xác hơn nữa.
KẾT LUẬN
Có thể thấy, pháp luật ngày một có những quy định hoàn thiện
hơn về kinh doanh bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng.
Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định về vấn đề tuổi trong
giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, một
mặt sẽ bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm, mặt khác cũng
góp phần thúc đẩy cho kinh doanh bảo hiểm phát triển hơn trong tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét