Đề số 7:
Quốc gia A và B đều là thành viên của
Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự. Năm 1998, quan hệ giữa quốc gia A và B
trở nên căng thẳng khi quốc gia A quyết định bắt giữ và xét xử ông Mohamet Ahit
viên chức lãnh sự cao cấp của B trên lãnh thổ quốc gia A – với lời cáo buộc
Mohamet Ahit có những hành vi “ phi ngoại giao” vi phạm nghiêm trọng pháp luật
quốc gia A, khi ông này tiến hành chuyển tiền từ một tổ chức phi chính phủ để hỗ
trợ cho nhóm phiến loạn tại quốc gia A thực hiện hành vi chống lại quốc gia
này. Hành vi chuyển tiền nói trên đã được ông Mohamet Ahit thực hiện nhiều lần
kết hợp với quá trình thực hiện công vụ. Ngày 18/8/1998 sau khi thực hiện xong
việc chuyển tiền, ông Mohamet Ahit trở về nhà và đã bị bắt. Đông thời với việc
xét xử ông Mohamet Ahit, quốc gia A quyết định trục xuất các thành viên khác
trong lãnh sự quán của B có liên quan đến vụ việc.
Cho
rằng quốc gia A vi phạm các quy định của Công ước Viên 1963, quốc gia B đã lên
tiếng phản đối hành vi bắt giữ và xét xử ông Mohamet Ahit, đồng thời yêu cầu quốc
gia A phải có lời giải thích rõ ràng về quyết định trục xuất các viên chức khác
trong Lãnh sự quán.
Hãy
cho biết: Hành vi bắt giữa và xét xử ông Mohamet Ahit và trục xuất các thành
viên cao cấp trong Lãnh sự quán B của A có phù hợp với quy định của Công ước
Viên 1963 về quan hệ lãnh sự mà hai nước đều là thành viên không? Tại sao?
BÀI LÀM
Hành vi bắt giữ, xét xử
ông Mohamet Ahit và trục xuất các thành viên cao cấp trong Lãnh sự quán B của A
là phù hợp với quy định của Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự mà cả hai nước
đều là thành viên . Vì.
1.
Hành
vi bắt giữ và xét xử ông Mohamet Ahit – viên chức lãnh sự trong Lãnh sự quán B
của quốc gia A là đúng. Bởi những căn cứ sau:
Thứ nhất:
Điều 41 Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự ghi nhận quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của các viên chức lãnh sự như sau:” 1. Các viên chức lãnh sự có thể bị bắt hoặc bị tạm giam giữ để chờ xét
xử trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng và theo quyết định của cơ quan pháp
luật có thẩm quyền ”. “ Tội nghiêm trọng”
ở đây phải được hiểu là tội nghiêm trọng theo pháp luật của quốc gia tiếp nhận.
Quay trở lại những dữ kiện đầu bài cho thì ông Mohamet Ahit có những hành vi “vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc gia A”
cụ thể là “tiến hành chuyển tiền từ một tổ
chức phi chính phủ để hỗ trợ cho nhóm phiến loạn quốc gia A thực hiện hành vi
chống lại quốc gia này”. Như vậy, căn cứ vào điều luật đã trích dẫn trên
thì hành vi bắt giữ và xét xử ông Mohamet Ahit của quốc gia A là hoàn toàn phù
hợp với quy định của Công ước Viên 1963
về quan hệ lãnh sự.
Thứ hai:
Điều 43 Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự cũng quy định quyền miễn tài phán của của viên chức lãnh sự
rằng: “ 1. Các viên chức lãnh sự và nhân
viên lãnh sự không phải chịu sự tài phán của các nhà chức trách tư pháp hoặc
hành chính của nước tiếp nhận lãnh sự về các hành động của mình trong khi thừa
hành nhiệm vụ lãnh sự”.Như vậy có nghĩa, các viên chức lãnh sự và nhân viên
lãnh sự không được hưởng miễn trừ tài phán đối với các hành động vi phạm pháp
luật của quốc gi tiếp nhận không nằm trong chức năng lãnh sự của mình. Quyền
tài phán chia ra làm ba loại: Quyền tài phán về hình sự, quyền tài phán về dân
sự, quyền tài phán về hành chính. Cụ thể trong trường hợp này, ông Mohamet Ahit
không được hưởng quyền miễn trừ tài phán về hình sự bởi: theo đề bài viên chức
lãnh sự này đã có những hành vi “ phi ngoại
giao” như “ tiến hành chuyển tiền từ
một tổ chức phi chính phủ để hỗ trợ cho nhóm phiến loạn quốc gia A thực hiện
hành vi chống lại quốc gia này”. Có thể thấy hành vi này của ông Mohamet
Ahit không thuộc các chức năng lãnh sự của viên chức lãnh sự quy định tại Điều
5 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự 1963 mà nó chỉ được ông thực hiện “ kết hợp với quá trình thực hiện công vụ”.
Tức, ông Mohamet Ahit đã lợi dụng việc thực hiện công vụ để tiến hành các hoạt
động “ phi ngoại giao” được cho là vi
phạm nghiêm trọng pháp luật của quốc gia A nhằm che giấu hành vi vi phạm của
mình. Những hành vi của vị viên chức lãnh sự này không những đi ngược lại tinh
thần tốt đẹp của Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963 mà còn góp phần tạo
ra nguy cơ bất ổn định tại quốc gia tiếp nhận. Do vậy, việc ông Mohamet Ahit bị cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A bắt và
xét xử là hoàn toàn hợp lý. Điều này không hề vi phạm quy định của Công ước
Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự như lời
cáo buộc của quốc gia B.
Từ
những căn cứ trên, khẳng định: hành vi bắt giữ và xét xử ông Mohamet Ahit –
viên chức lãnh sự trong Lãnh sự quán B của quốc gia A là phù hợp với quy định của
công ước Viên 1963.
2.
Việc
quốc gia A trục xuất các thành viên khác trong lãnh sự quán B là đúng. Và quốc
gia A cũng không bắt buộc phải cho B biết lý do của quyết định này. Vì:
Thứ nhất:
Khoản 1 Điều 23 Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự quy định về những người
bị tuyên bố không được chấp thuận như sau: “
Nước tiếp nhận lãnh sự có thể báo trước cho nước cử lãnh sự bất cứ lúc nào rằng
một viên chức lãnh sự nào đó là persona non grata ( người không được chào đón
hay người bị bất tín nhiệm) hoặc một
nhân viên nào đó là persona non grata […]” . Như vậy, trong tình huống này,
quốc gia A hoàn toàn có quyền tuyên bố các thành viên khác trong lãnh sự quán của
B liên quan đến vụ việc của Mohamet Ahit là “persona non grata”, theo đó quyết định trục xuất họ ra khỏi lãnh thổ
quốc gia mình. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, không ít vụ việc tương tự cũng đã từng xảy ra tế mà gần đây nhất là vụ
việc Mĩ tuyên bố Orlando Jose Montanez Olivare – thành viên của Lãnh sự quán
Venezuela là “không được chào đón tại Mĩ” và đã trục xuất ra khỏi nước này vào
ngày 10/3/2013 vừa qua.
Thứ hai:
Theo quy định tại Khoản 4, Điều 23 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự năm 1963:” Trong trường hợp ghi ở đoạn 1 và đoạn 3 điều
này nước tiếp nhận lãnh sự không bắt buộc phải cho nước cử lãnh sự biết lý do
quyết định của mình” , thì quốc gia A không những có quyền trục xuất các
thành viên khác trong lãnh sự quán B có liên quan đến vụ việc của ông Mohamet
Ahit ra khỏi lãnh thổ của mình mà còn
không cần phải giải thích rõ lý do quyết định này cho quốc gia B. Do đề bài
không nói đến nên ta mặc nhiên công nhận rằng trước khi bắt tạm giam giữ, xét xử,
trục xuất thành viên trong lãnh sự quán của nước B, quốc gia A đã thông báo cho
B biết theo quy định tại Điều 42 Công ước
Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
Kết luận: Hành vi bắt giữ, xét xử ông Mohamet
Ahit và trục xuất các thành viên cao cấp trong Lãnh sự quán B của A là phù hợp
với quy định của Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự mà cả hai nước đều là
thành viên.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại
học Luật Hà Nội, giáo trình Luật quốc tế,
Nxb. CAND. Hà Nội – 2011.
2. Ths.
Nguyễn Thị Kim Ngân – Ths Chu Mạnh Hùng, Giáo
trình Luật quốc tế, Nxb. GDVN. Hà Nội – 2010.
3. Công
ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
4. Vnexpress.net
NHỮNG ĐIỀU LUẬT LÀM CĂN CỨ PHÁP LÝ
TRONG BÀI LÀM
Điều 5. Chức năng lãnh sự
Các chức năng lãnh sự gồm có
a) Bảo
vệ tại nước tiếp nhận lãnh sự các quyền lợi của nước cử lãnh sự và người dân của
nước đó, cá nhân cũng như pháp nhân trong phạm vi pháp luật quốc tế cho phép;
b) Tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển quan hệ thương mại, kinh tế, văn hóa và sự
phát triển bằng mọi cách khác mối quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia theo đúng
các điều khoản của Công ước này;
c) Bằng
mọi phương tiện hợp pháp, tìm hiểu tình hình sinh hoạt, thương mại, kinh tế,
văn hóa và khoa học của nước tiếp nhận lãnh sự, báo cáo tình hình đó về Chinhd
phủ nước cử lãnh sự và cung cấp tài liệu cho những người hữu quan;
d) Cấp
hộ chiếu và giấy tờ đi đường cho cho người dân nước cử lãnh sự, cũng như cấp thị
thực và các tài liều thích ứng cho những người muốn đến nước cử lãnh sự;
e) Cứu
trợ và giúp đở những công dân, cá nhân cũng như pháp nhân của nước cử lãnh sự;
f) Hoạt
động như một công chứng viên, một hộ tịch viên và làm những chức năng tương tự,
cũng như thi hành một số chức năng có tính chất hành chính, miễn là không trái
gì với luật lệ của nước tiếp nhận lãnh sự;
g) Bảo
vệ lợi ích của người dân, cá nhân cũng như pháp nhân nước cử lãnh sự trong trường
hợp có thừa kế di sản trên lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự, theo đúng luật lệ của
nước tiếp nhận lãnh sự;
h) Trong
phạm vi luật lệ của nước tiếp nhận lãnh sự cho phép, bảo vệ lợi ích của những
người vị thành niên và những người không đủ năng lực mà là công dân của nước cử
lãnh sự nhất là trong trường hợp lập sự giám hộ hoặc sự ủy thác tài sản đối với
họ;
i) Với
điều kiện phải tôn trọng tập quán và thủ tục tiến hành ở nước tiếp nhận lãnh sự
làm đại diện hoặc bố trí việc đại diện thích ứng cho người dân nước cử lãnh sự
trước Tòa án và các cơ quan khác của nước tiếp nhận lãnh sự, nhằm mục đích làm
cho những biện pháp tạm thời để bảo vệ quyền lợi của những người dân đó được áp
dụng theo đúng luật lệ của nước tiếp nhận lãnh sự, trong trường hợp vì vắng mặt
hoặc vì một lý do nào khác những người dân đó không thể kịp thời đảm nhiệm việ
bảo vệ quyền lợi của họ;
j) Chuyển
giao cá tài liệu tư pháp và các tài liệu không có tính chất tư pháp hoặc chấp
hành các ủy nhiệm điều tra hoặc thu thập chứng cứ cho các Tòa án ở nước cử lãnh
sự theo đúng các Hiệp định quốc tế hiện hành hoặc nếu không có những Hiệp định
quốc tế như vậy, thì theo bất cứ cách nào khác phù hợp với luật lệ của nước tiếp
nhận lãnh sự;
k) Thực
hiện quyền giám sát và kiểm tra đã được quy định trong luật lệ của nước cử lãnh
sự đối với các tàu thủy có quốc tịch của nước cử lãnh sự, và các máy bay đăng
kí ở nước này, cũng như đối với các nhân
viên công tác trên tàu thủy và máy bay đó;
l) Giúp
đỡ các tàu thủy và máy bay nêu ở điểm k của điều này và giúp đỡ các nhân viên
công tác trên tàu thủy và máy bay đó, tiếp nhận các lời khai về chuyến đi của
tàu thủy, xem xét và đóng dấu giấy tờ của tàu, với điều kiện không ảnh hưởng gì
đến quyền hạn của nhà đương cục nước tiếp nhận lãnh sự, tiến hành điều tra về bất
cứ sự việc nào xảy ra trong chuyến đi và giải quyết các việc tranh chấp thuộc bất
cứ loại gì giữa thuyền trưởng, nhân viên và thủy thủ trong chừng mực luật lệ của
nước cử lãnh sự cho phép;
m) Thi hành chức năng khác do nước cử lãnh sự
giao cho một cơ quan lãnh sự mà không bị nước tiếp nhận lãnh sự ngăn cấm hoặc
không bị nước tiếp nhận lãnh sự phản đối hoặc có nói đến trong các Hiệp định quốc tế hiện hành giữa nước cử
lãnh sự và nước tiếp nhận lãnh sự.
Điều 23. Những người bị tuyên bố là
không được chấp thuận
1. Nước
tiếp nhận lãnh sự có thể bảo cho nước cử lãnh sự bất cứ lúc nào rằng môt viên
chức lãnh sự nào đó là người không được chấp thuận hoặc một nhân viên nào khác
của cơ quan lãnh sự là người không thể chấp nhận được. Trong trường hợp này, nước
cử lãnh sự phải triệu hồi đương sự hoặc đình chỉ công việc của người này tại cơ
quan lãnh sự.
2. Nếu
nước cử từ chối không chịu hoặc sau một khoảng thời gian vừa phải vẫn chưa thi
hành nghĩa vụ của mình theo đoạn 1 của điều này, nước tiếp nhận lãnh sự có thể
tùy từng trường hợp hoặc rút giấy chứng nhận lãnh sự của đương sự hoặc thôi
không coi người đó là nhân viên của cơ quan lãnh sự nữa.
3. Một
người được cử làm nhân viên một cơ quan lãnh sự có thể bị tuyên bố là người
không thể chấp nhận được trước khi đến lãnh thổ nước tiếp nhận lãnh sự hoặc nếu
đã đến rồi, thì trước khi nhận nhiệm vụ tại cơ quan lãnh sự, trong bất cứ trường
hợp nào như vậy, nước cử lãnh sự phải bãi bỏ việc cổ nhiệm người đó.
4. Trong
những trường hợp ghi ở Khoản 1 và Khoản 3 của Điều này nước tiếp nhận lãnh sự
không bắt buộc phải cho nước cử biết lý do quyết định của mình.
Điều 41. Quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của các viên chức lãnh sự.
1. Các
viên chức lãnh sự có thể bị bắt hoặc bị tạm giam giữ để chờ xét xử trong trường
hợp phạm tội nghiêm trọng và theo quyết định của cơ quan pháp luật có thẩm quyền.
2. Ngoài
trường hợp nêu ở đoạn 1 của Điều này, không được giam cầm hoặc dùng bất cứ hình
thức nào khác để hạn chế quyền tự do thân thể của viên chức lãnh sự trừ trường
hợp thi hành một quyết định chung thẩm của Tòa án một quốc gia.
3. Nếu
một viên chức lãnh sự bị truy tố về hình sự thì người đó phải ra trước nhà
đương cục có thẩm quyền. Tuy nhiên việc truy tố phải được tiến hành với sự tôn
trọng xứng đáng với cương vị công tác chính thức của họ và đảm bảo càng ít trở
ngại cho việc thừa hành nhiệm vụ của họ càng tốt trừ trường hợp nêu ở Khoản 1 của
Điều này, khi cần tạm giam giữa một viên chức lãnh sự trong hoàn cảnh nêu ở Khoản
1 Điều này, việc truy tố người đó phải được tiến hành thật khẩn trương.
Điều 42. Thông báo về việc bắt,
giam giữ hoặc truy tố
Trong trường hợp bắt hoặc tạm giam, giữ
đến đợi xét xử hoặc truy tố về hình sự trước Tòa án một nhân viên cơ quan lãnh
sự nước tiếp nhận lãnh sự phải nhanh chóng báo cho người đứng đầu cơ quan lãnh
sự biết. Nếu chính bản thân người đó là đối tượng bị xử lý như trên, nước tiếp
nhận lãnh sự phải báo cho nước cử lãnh sự qua con đường ngoại giao.
Điều 43. Quyền miễn trừ tài phán
1. Các
viên chức lãnh sự và nhân viên lãnh sự không phải chịu sự tài phán của các nhà
chức trách tư pháp hoặc hành chính của nước tiếp tiếp nhận lãnh sự về các hành
động của mình trong khi thừa hành nhiệm vụ lãnh sự.
2. Tuy
nhiên những điều quy định ở khoản 1 Điều này không áp dụng đối với một vụ tố tụng
dân sự:
a) Xảy
ra vì một hợp đồng do một viên chức lãnh sự hoặc một nhân viên lãnh sự ký kết
mà không phải là rõ ràng hoặc hàm ý đứng trên danh nghĩa một người của nước của
nước cử lãnh sự để ký kết.
b) Hoặc
do một bên thứ ba tiến hành về thiệt hại do tai nạn ô tô, tàu thủy hoặc máy bay
xảy ra tại nước tiếp nhận lãnh sự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét