BÀI LÀM
I/Đặt vấn đề
Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát
sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là
một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay,
pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
của các cá nhân và tổ chức khác.Liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
thì những quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng là thực sự cần thiết vì cá nhân gây thiệt
hại hoặc là người đã thành niên hoặc là người chưa thành niên hoặc là người mất
năng lực hành vi dân sự và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc
về ai có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn cả ý nghĩa về mặt thực tiễn
quan trọng.
II/Giải quyết vấn đề
1/Lý luận chung
1.1/Một số khái niệm
Thứ nhất,trách nhiệm BTTH là một loại
trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của
mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Thứ hai,trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi
vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng có các đặc điểm sau:
+Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy
định.
+Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các
điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát
luật, có lỗi của người
gây ra thiệt hại , có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra.
+Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng
đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với
người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh
viện, cơ sở dạy nghề….
+Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về
nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây
thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt và lâu dài của họ.
Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào:cá nhân,pháp nhân,cơ
quan nhà nước…Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi
thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ,mặc dù hành vi gây ra
thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện.BLDS quy định về năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân(Điều 606 BLDS) mà không quy định
về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.Bởi vậy,các chủ thể khác được coi
là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.Xuất phát từ năng lực chủ
thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự,BLDS quy định năng lực chịu
trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi,tình trạng tài
sản và khả năng bồi thường của cá nhân.
1.2/Năng lực chủ thể của cá nhân
Năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành
vi dân sự tạo thành.Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá
nhân được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự theo quy định của
pháp luật(quy định tại điều 14).Như vậy ,năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
là khả năng khách quan và mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự ngang
nhau.
Ngoài năng lực pháp luật dân sự,năng lực hành vi dân sự của cá nhân là
một yếu tố cùng với năng lực pháp luật dân sự cấu thành năng lực chủ thể của cá
nhân.Theo những quy định từ điều 17 đến điều 21 BLDS quy định mức độ năng lực
hành vi dấn sự của cá nhân gồm các bậc người thành niên,người chưa thành niên
và năng lực hành vi của họ được quy định rất cụ thể.Theo quy định tại điều 19
thì người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,trừ trường hợp
mất năng lực hành vi dân sự do mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không
thể nhận thức,làm chủ được hành vi của mình.Theo quy định tại điều 21 thì người
không có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi .Năng lực hành vi dân
sự của người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được quy định tại điều 20 BLDS
được coi là người có một phần năng lực hành vi dân sự ,do vậy,người ở độ tuổi
này phải chịu trách nhiệm tài sản của mình khi gây thiệt hại cho người khác.
1.3/Mối quan hệ giữa năng lực hành vi
dân sự với năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây
thiệt hại ngoài hợp đồng.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt
hại ngoài hợp đồng không đồng nhất với năng lực hành vi dân sự của cá nhân.Năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên năng lực hành vi dân sự của
cá nhân,dựa vào khả năng nhận thức của cá nhân có hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại ngoài hợp đồng để có cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.Điều 606 BLDS không quy định năng lực hành vi dân sự nhưng lại dựa vào yếu
tố độ tuổi và sự phát triển trí lực của cá nhân để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của chủ thể là cá nhân trực tiếp gây thiệt hại hoặc người phải
bồi thường là cha,mẹ hoặc người giám hộ của cá nhân gây thiệt hại.
Để xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước tiên
phải dựa vào yếu tố lỗi của người gây thiệt hại.Do vậy quy định tại điều 308
BLDS và quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy
định tại điều 604 BLDS cần phải được áp dụng trong việc xác định năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp
đồng.Khả năng nhận thức của cá nhân khi gây thiệt hại là cơ sở quan trọng để
xác định hình thức lỗi của cá nhân.Mà năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng phụ thuộc vào khả năng nhận thức.Khả năng nhận thức
lại có mối liên hệ với độ tuổi .Do vậy,giữa mức độ năng lực hành vi dân sự của cá
nhân với năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân có mối liên
hệ mật thiết.
2/Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
do gây thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật
Việc xác định ai là người phải bồi thường thiệt hại do có hành vi gây thiệt hại là mục đích điều
chỉnh của pháp luật:một mặt,xác định rõ chủ thể phải bồi thường thiệt hại để
qui trách nhiệm cho người đó phả chịu trách nhiệm về hành vi của mình.Mặt khác
còn là căn cứ xác định tư cách chủ thể trong tố tụng dân sự.Hơn nữa,quyền,lợi
ích hợp pháp của người bị thiệt hại hoặc thân nhân của người bị thiệt hại cũng
được đảm bảo.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại ngoài
hợp đồng được quy định tại điều 606 BLDS như sau:
“Năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây
thiệt hại mà còn cha,mẹ thì cha,mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài
sản của cha,mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có
tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu,trừ trường hợp
quy định tại điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình,nếu không
đủ tài sản để bồi thường thì cha,mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản
của mình.
3. Người chưa thành niên,người mất năng
lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà
có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ
để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để
bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy
tài sản của mình để bồi thường.”
Theo quy định tại điều 606 BLDS thì việc xác định trách của cá nhân gây
thiệt hại ngoài hợp đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên
các mức độ năng lựa hành vi dân sự khác nhau:
*Mức độ thứ nhất được quy định tại khoản 1: Người từ đủ 18 tuổi trở lên
có năng lực hành vi đấy đủ phải tự bồi
thường thiệt hại do họ gây ra.Điều này xuất phát từ “khả năng bằng hành
vi của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ” (Điều 19 BLDS).Như vậy,người
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự,người đã thành niên phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình,phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình và không phụ
thuộc vào tình trạng tài sản của bản thân người này.Người đã thành niên có hành
vi gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng
tài sản của mình và có đủ tư cách làm bị đơn dân sự trước tòa án,là người có
trách nhiệm dân sự bồi thường toàn bộ thiệt hại.Tại khoản 1 điều 23 BLDS quy
định: “ Người nghiện ma túy,nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài
sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan ,cơ
quan,tổ chức hữu quan,Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự”.Theo quy định trên thì nhằm hạn chế năng lực hành vi
dân sự của cá nhân khi tham gia vào quan hệ giao dịch dân sự mà có liên quan
đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng không phải là
căn cứ loại trừ trách nhiệm dân sự của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
khi có hành vi gây thiệt hại cho người khác.Người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự là người đã trưởng thành,phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình
vì khi tham gia giao dịch dân sự,chủ thể tự mình tham gia theo ý chí ,tự
nguyện,tự do,tự định đoạt và có nhiệm vụ thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự
liên quan đến tài sản của mình.
*/Mức độ thứ hai theo khoản 2 đối với những người dưới 18 tuổi bao gồm 3
trường hợp:
-Trường hợp 1: người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,mẹ thì
cha,mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại,theo đó,cha mẹ của người gây thiệt hại
trong độ tuổi này có tư cách là bị đơn dân sự trước tòa án.Nếu tài sản của cha
mẹ không đủ mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường phần
còn thiếu.Trách nhiệm của cha,mẹ người dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại
do con chưa thành niên gây ra là trách nhiệm pháp lí,không cần có điều kiện
lỗi.Việc lấy tài sản của con để bồi thường trong trường hợp này không được hiểu
là nghĩa vụ bổ sung mà chỉ là khắc phục phần còn thiếu về tài sản.Trong quan hệ
bồi thường thiệt hại thì cha mẹ của người dưới mười lăm tuổi có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại còn người con trực tiếp gây thiệt hại không phải là chủ thể
trong quan hệ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.Việc lấy tài sản của con là để bảo
vệ kịp thời quyền,lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và nhằm bảo vệ nguyên
tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời.Ngoài ra,cũng có trường hợp những người dưới
15 tuổi ,người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở
trường học,bệnh viện quản lý thì trường hợp,bệnh viện phải bồi thường (theo
điều 621 BLDS 2005). “Thời gian quản lí” được hiểu là thời hạn trong đó các tổ
chức theo quy định của nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục,chữa bệnh mà họ đã
không thực hiện chức năng của họ,do lỗi của họ quản lí không tốt,người không có
năng lực hành vi ,người dưới mười lăm tuổi gây ra thiệt hại cho những người khác
(như tổ chức lao động cho các học sinh không tốt,không có các biện pháp an toàn,bảo hộ,việc nhân
viên bệnh viện không có biện pháp quản lí các bệnh nhân tâm thần…).Nếu các tổ
chức trên không có lỗi thì cha,mẹ,người giám hộ phải bồi thường.
-Trường hợp 2: đối với những người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình và người này
là chủ thể bồi thường thiệt hại.Pháp luật quy định người từ đủ 15 tuổi gây
thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là căn cứ vào điều kiện xã hội
thực tế.Bộ luật lao động quy định những người từ đủ mười lăm tuổi được tham gia
giao kết hợp đồng lao động với những công việc phù hợp với nhận thức và sức
khỏe của người đó.Theo đó,những người ở độ tuổi này tham gia lao động và được
hưởng các khoản tiền lương ,tiền thưởng và các khoản phúc lợi khác và là chủ sở
hữu với các khoản thu nhập hợp pháp đó.Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
thì những người trong đọ tuổi này có quyền tham gia tố tụng dân sự với tư cách là
nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trước tòa án.Người ở độ tuổi này đã nhận thức
được hành vi của mình và phần nào cũng tự định đoạt ý chí tham gia vào các quan
hệ dân sự phổ biến trong cuộc sống.Pháp luật đã dựa vào những cơ sở này để quy
định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người ở độ tuổi này.Tuy
nhiên,trong khi giải quyết những tranh chấp liên quan đến người ở độ tuổi này
trong trường hợp họ là bị đơn dân sự gây
thiệt hại cho người khác thì tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp
của người đó tham gia tố tụng.Xét về tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật
dân sự thì cá nhân trong đọ tuổi này có một phần năng lực hành vi dân sự,họ có
trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của mình gây ra bằng tài sản của mình.Nếu những người
này không đủ tài sản để bồi thường thì cha,mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
bằng tài sản của mình.
-Trường hợp 3:Địa vị pháp lí của người giám hộ hoàn toàn khác biệt so
với địa vị pháp lí của người là cha,mẹ của những người chưa thành niên,người
mất năng lực hành vi dân sự.Người giám hộ được quy định tại điều 58 BLDS,nghĩa
vụ của người giám hộ đối với người chưa thành niên và người mất năng lực hành
vi dân sự được quy định tại điều 65,66,67 BLDS.Người giám hộ có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ mà
để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác.Người giám hộ đương
nhiên,giám hộ được xử đối với những
người phải có giám hộ theo quy định tại khoản 2,điều 58 BLDS được dùng tài sản
của người được giám hộ để bồi thường.Người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung.Tuy
nhiên,nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ
không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.Trong trường hợp này sẽ không có
người bồi thường thiệt hại bởi những người được giám hộ không có khả năng về
năng lực hành vi để bồi thường nên người bị thiệt hại trong trường hợp này xem
như phải chịu rủi ro.
Theo quy định tại khoản 2 điều 67 BLDS người từ đủ 15-18 tuổi không còn
cha,mẹ,cha mẹ mất năng lực hành vi không buộc phải có người giám hộ .Theo
nguyên tắc chung người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi phải chịu trách nhiệm dân sự,do
vậy nếu có hành vi gây thiệt hại thì lấy tài sản của họ để bồi thường.
Theo nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
“3.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
3.1.Khi thực hiện quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại,cần phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự trong
từng trường hợp cụ thể như sau:
-Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt
hại là bị đơn dân sự,trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
-Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha,mẹ
của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
-Trong trường hợp quy định đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây
thiệt hại là bị đơn dân sự và cha,mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền
lợi,nghĩa vụ liên quan;
-Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân,tổ chức
giám hộ là bị đơn dân sự.
3.2.Việc quyết định về bồi thường(lấy tài sản để bồi thường) phải cụ thể
và theo đúng quy định tại Điều 606 BLDS.”
3/Liên hệ thực tiễn
*/Những quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng trong thời gian qua đã phát huy có hiệu
quả trong giải quyết các vụ việc trên thực tế,đảm bảo được quyền và lợi ích của
người bị thiệt hại, góp phần xác định đúng chủ thể phải bồi thường thiệt hại.
Chẳng hạn như trong
tình huống M là sinh viên đại học Z.Khi điều khiển xe máy,do phóng nhanh vượt
ẩu nên đã đam vào ông V.Sau khi tai nạn xảy ra,ông V được đưa vào điều trị tại
bệnh viện và chi phí chữa trị hết 8 triệu đồng.Theo quy định tạo mục 3.1 mục 3
Phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định trong trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 606 BLDS năm 2005 thì người gây ra thiệt hại là bị đơn dân sự,trừ trường
hợp họ mất năng lực hành vi dân sự.Khoản 1 Điều 606 BLDS 2005 quy định người từ
đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.Dựa vào những căn cứ trên thì
bị đơn dân sự và người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là M.Trong
trường hợp M không có tài sản để bồi thường và việc gây thiệt hại chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự thì tại thời điểm đó,người bị thiệt hại tạm thời
chấp nhận rủi ro,trừ trường hợp bố mẹ hoặc người thân của M tự nguyện bồi
thường thiệt hại thay cho M.
Ở tình huống A và B
(16 tuổi) là học sinh lớp 10 cùng đi học về bằng chiếc xe đạp nam gióng ngang.
A ngồi trên yên và đạp ; B ngồi trên gióng ngang điều chỉnh tay lái. Khi đang
ngênh ngang phóng xe đạp trên vỉa hè, do mải cười đùa, họ đã đâm xe vào cụ T –
79 tuổi đang đi bách bộ, làm cụ ngã, gẫy cột sống. Mặc dù đã được điều trị
nhưng kết quả cụ T do bị trấn thương nặng nên phải nằm liệt, không đi lại được.Vì A và B đều 16 tuổi nên
theo khoản 2 Điều 606 BLDS 2005, A và B phải tự bồi thường bằng tài sản của mình. Trong trường
hợp này, cụ T có thể kiện A và B với tư cách là bị đơn dân sự. Nếu A và B không có tài
sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ của A, B phải bồi thường
phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Trong trường hợp này, cha, mẹ của A, B là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Hay như trong tình
huống Trường Trung học cơ sở X tổ chức cho các em thiếu nhi lớp 7 đi thăm quan và
cắm trại tại Ao Vua. C (12 tuổi)
cố tình trêu đùa, đã đẩy D – một
bạn gái cùng lớp ngã xuống suối , không ngờ đầu D đập vào đá dẫn đến trấn thương não. D phải đi cấp cứu
và nằm điều trị trong bệnh viện nhiều ngày. Bố mẹ D đã làm đơn kiện
C ra tòa. Bố mẹ C cho rằng nhà
trường cũng phải có trách nhiệm.Theo Điều 621 BLDS 2005 quy định về bồi thường
thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý, người dưới mười
lăm tuổi trong trường hợp học tại trường mà gây thiệt hại thì nhà trường phải
bồi thường thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp trên, C gây thiệt hại
trong thời gian thuộc sự quản lý của nhà trường, vì trường tổ chức cho các cháu
đi tham quan, vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về trường trung
học cơ sở X. Nếu trường học chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản
lý (ví dụ C đã
không chấp hành quy định chung, trốn thầy cô ra suối chơi, rồi gây thiệt hại
cho D) thì bố
mẹ C phải
bồi thường.
*/Một số hạn chế
Theo quy định tại điều 606 BLDS thì người từ đủ 18 tuổi trở lên không
tâm thần,không mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức,làm chủ được hành vi
của mình khi gây thiệt hại cho người khác thì phải tự bồi thường bằng tài sản
của mình.Nhưng xét về thực tế ở Việt nam hiện nay,những cá nhân có đủ năng lực
hành vi dân sự và tố tụng dân sự có một phần không nhỏ còn đang theo học các
cấp đào tạo nghề,cao đẳng,đại học và trung cấp mà phần lớn trong số họ vẫn được
cha,mẹ chu cấp tiền ăn,học,ở và các chi phí phục vụ cho việc học tập.Những
người này còn đi học,chưa có việc làm và không có thu nhập,khi họ có hành vi
trái pháp luật và gây thiệt hại cho người khác thì nguyên tắc phải được bồi
thường toàn bộ và kịp thời thật khó thực hiện được.Nếu không thực hiện được thì
lợi ích của người bị thiệt hại còn tiếp tục bị vi phạm do người gây thiệt hại
không có tài sản để bồi thường.Vì vậy,khi quyết định bồi thường đối với những
người này có thể động viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ,nếu cha mẹ tự nguyện ,thì ghi
nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha mẹ phải bồi thường thay cho con em họ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS thì trách nhiệm của cha mẹ người
dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên gây ra là trách
nhiệm pháp lý,không cần có điều kiện lỗi.Trên thực tế vẫn có những hiểu sai về
quy định của pháp luật.Có ý kiến cho rằng cha mẹ của người chưa thành niên dưới
15 tuổi phải bồi thường thiệt hại do con gây ra là căn cứ vào yếu tố lỗi của cha mẹ đã không quản lí,quan sát để con
mình gây ra thiệt hại.Như vậy là không đúng bản chất của pháp luật và là sự suy
đoán.Quy định này thực chất nhằm bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.Tuy nhiên,
pháp luật cũng cần phải có những quy định cụ thể hơn nữa để tránh hiểu lầm như
trên.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét