Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

                                                  BÀI LÀM
I/Đặt vấn đề
    Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.Liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân thì những quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng là thực sự cần thiết vì cá nhân gây thiệt hại hoặc là người đã thành niên hoặc là người chưa thành niên hoặc là người mất năng lực hành vi dân sự và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn cả ý nghĩa về mặt thực tiễn quan trọng.

II/Giải quyết vấn đề
1/Lý luận chung
1.1/Một số khái niệm
    Thứ nhất,trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
     Thứ hai,trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có các đặc điểm sau:
     +Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.
     +Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kin đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có lỗi của người gây ra thiệt hại , có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
    +Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề….
   +Về mức bồi thường: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ.
     Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào:cá nhân,pháp nhân,cơ quan nhà nước…Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ,mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện.BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân(Điều 606 BLDS) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.Bởi vậy,các chủ thể khác được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự,BLDS quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi,tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân.
1.2/Năng lực chủ thể của cá nhân
   Năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự tạo thành.Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật(quy định tại điều 14).Như vậy ,năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng khách quan và mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự ngang nhau.
   Ngoài năng lực pháp luật dân sự,năng lực hành vi dân sự của cá nhân là một yếu tố cùng với năng lực pháp luật dân sự cấu thành năng lực chủ thể của cá nhân.Theo những quy định từ điều 17 đến điều 21 BLDS quy định mức độ năng lực hành vi dấn sự của cá nhân gồm các bậc người thành niên,người chưa thành niên và năng lực hành vi của họ được quy định rất cụ thể.Theo quy định tại điều 19 thì người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự do mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức,làm chủ được hành vi của mình.Theo quy định tại điều 21 thì người không có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi .Năng lực hành vi dân sự của người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được quy định tại điều 20 BLDS được coi là người có một phần năng lực hành vi dân sự ,do vậy,người ở độ tuổi này phải chịu trách nhiệm tài sản của mình khi gây thiệt hại cho người khác.
1.3/Mối quan hệ giữa năng lực hành vi dân sự với năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng.
    Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng không đồng nhất với năng lực hành vi dân sự của cá nhân.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên năng lực hành vi dân sự của cá nhân,dựa vào khả năng nhận thức của cá nhân có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại ngoài hợp đồng để có cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.Điều 606 BLDS không quy định năng lực hành vi dân sự nhưng lại dựa vào yếu tố độ tuổi và sự phát triển trí lực của cá nhân để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể là cá nhân trực tiếp gây thiệt hại hoặc người phải bồi thường là cha,mẹ hoặc người giám hộ của cá nhân gây thiệt hại.
    Để xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước tiên phải dựa vào yếu tố lỗi của người gây thiệt hại.Do vậy quy định tại điều 308 BLDS và quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại điều 604 BLDS cần phải được áp dụng trong việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng.Khả năng nhận thức của cá nhân khi gây thiệt hại là cơ sở quan trọng để xác định hình thức lỗi của cá nhân.Mà năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phụ thuộc vào khả năng nhận thức.Khả năng nhận thức lại có mối liên hệ với độ tuổi .Do vậy,giữa mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân với năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân có mối liên hệ mật thiết.
2/Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật
   Việc xác định ai là người phải bồi thường thiệt hại  do có hành vi gây thiệt hại là mục đích điều chỉnh của pháp luật:một mặt,xác định rõ chủ thể phải bồi thường thiệt hại để qui trách nhiệm cho người đó phả chịu trách nhiệm về hành vi của mình.Mặt khác còn là căn cứ xác định tư cách chủ thể trong tố tụng dân sự.Hơn nữa,quyền,lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại hoặc thân nhân của người bị thiệt hại cũng được đảm bảo.
   Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại điều 606 BLDS như sau:
   “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1.     Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì  phải tự bồi thường.
2.      Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,mẹ thì cha,mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha,mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu,trừ trường hợp quy định tại điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình,nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3.     Người chưa thành niên,người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt       hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
   Theo quy định tại điều 606 BLDS thì việc xác định trách của cá nhân gây thiệt hại ngoài hợp đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên các mức độ năng lựa hành vi dân sự khác nhau:
   *Mức độ thứ nhất được quy định tại khoản 1: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đấy đủ phải tự bồi  thường thiệt hại do họ gây ra.Điều này xuất phát từ “khả năng bằng hành vi của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ” (Điều 19 BLDS).Như vậy,người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự,người đã thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình,phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình và không phụ thuộc vào tình trạng tài sản của bản thân người này.Người đã thành niên có hành vi gây thiệt hại cho người khác phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình và có đủ tư cách làm bị đơn dân sự trước tòa án,là người có trách nhiệm dân sự bồi thường toàn bộ thiệt hại.Tại khoản 1 điều 23 BLDS quy định: “ Người nghiện ma túy,nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền,lợi ích liên quan ,cơ quan,tổ chức hữu quan,Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”.Theo quy định trên thì nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi tham gia vào quan hệ giao dịch dân sự mà có liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng không phải là căn cứ loại trừ trách nhiệm dân sự của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có hành vi gây thiệt hại cho người khác.Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người đã trưởng thành,phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình vì khi tham gia giao dịch dân sự,chủ thể tự mình tham gia theo ý chí ,tự nguyện,tự do,tự định đoạt và có nhiệm vụ thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản của mình.
    */Mức độ thứ hai theo khoản 2 đối với những người dưới 18 tuổi bao gồm 3 trường hợp:
     -Trường hợp 1: người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,mẹ thì cha,mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại,theo đó,cha mẹ của người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách là bị đơn dân sự trước tòa án.Nếu tài sản của cha mẹ không đủ mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu.Trách nhiệm của cha,mẹ người dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra là trách nhiệm pháp lí,không cần có điều kiện lỗi.Việc lấy tài sản của con để bồi thường trong trường hợp này không được hiểu là nghĩa vụ bổ sung mà chỉ là khắc phục phần còn thiếu về tài sản.Trong quan hệ bồi thường thiệt hại thì cha mẹ của người dưới mười lăm tuổi có trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn người con trực tiếp gây thiệt hại không phải là chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.Việc lấy tài sản của con là để bảo vệ kịp thời quyền,lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và nhằm bảo vệ nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời.Ngoài ra,cũng có trường hợp những người dưới 15 tuổi ,người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học,bệnh viện quản lý thì trường hợp,bệnh viện phải bồi thường (theo điều 621 BLDS 2005). “Thời gian quản lí” được hiểu là thời hạn trong đó các tổ chức theo quy định của nghề nghiệp có nghĩa vụ giáo dục,chữa bệnh mà họ đã không thực hiện chức năng của họ,do lỗi của họ quản lí không tốt,người không có năng lực hành vi ,người dưới mười lăm tuổi gây ra thiệt hại cho những người khác (như tổ chức lao động cho các học sinh không tốt,không  có các biện pháp an toàn,bảo hộ,việc nhân viên bệnh viện không có biện pháp quản lí các bệnh nhân tâm thần…).Nếu các tổ chức trên không có lỗi thì cha,mẹ,người giám hộ phải bồi thường.
    -Trường hợp 2: đối với những người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình và người này là chủ thể bồi thường thiệt hại.Pháp luật quy định người từ đủ 15 tuổi gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là căn cứ vào điều kiện xã hội thực tế.Bộ luật lao động quy định những người từ đủ mười lăm tuổi được tham gia giao kết hợp đồng lao động với những công việc phù hợp với nhận thức và sức khỏe của người đó.Theo đó,những người ở độ tuổi này tham gia lao động và được hưởng các khoản tiền lương ,tiền thưởng và các khoản phúc lợi khác và là chủ sở hữu với các khoản thu nhập hợp pháp đó.Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì những người trong đọ tuổi này có quyền tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trước tòa án.Người ở độ tuổi này đã nhận thức được hành vi của mình và phần nào cũng tự định đoạt ý chí tham gia vào các quan hệ dân sự phổ biến trong cuộc sống.Pháp luật đã dựa vào những cơ sở này để quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người ở độ tuổi này.Tuy nhiên,trong khi giải quyết những tranh chấp liên quan đến người ở độ tuổi này trong trường hợp họ là bị đơn dân sự  gây thiệt hại cho người khác thì tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của người đó tham gia tố tụng.Xét về tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự thì cá nhân trong đọ tuổi này có một phần năng lực hành vi dân sự,họ có trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra bằng tài sản của mình.Nếu những người này không đủ tài sản để bồi thường thì cha,mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
    -Trường hợp 3:Địa vị pháp lí của người giám hộ hoàn toàn khác biệt so với địa vị pháp lí của người là cha,mẹ của những người chưa thành niên,người mất năng lực hành vi dân sự.Người giám hộ được quy định tại điều 58 BLDS,nghĩa vụ của người giám hộ đối với người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại điều 65,66,67 BLDS.Người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác.Người giám hộ đương nhiên,giám hộ được xử  đối với những người phải có giám hộ theo quy định tại khoản 2,điều 58 BLDS được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường.Người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung.Tuy nhiên,nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong việc giám hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.Trong trường hợp này sẽ không có người bồi thường thiệt hại bởi những người được giám hộ không có khả năng về năng lực hành vi để bồi thường nên người bị thiệt hại trong trường hợp này xem như phải chịu rủi ro.
    Theo quy định tại khoản 2 điều 67 BLDS người từ đủ 15-18 tuổi không còn cha,mẹ,cha mẹ mất năng lực hành vi không buộc phải có người giám hộ .Theo nguyên tắc chung người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi phải chịu trách nhiệm dân sự,do vậy nếu có hành vi gây thiệt hại thì lấy tài sản của họ để bồi thường.
   Theo nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
   “3.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
   3.1.Khi thực hiện quy định tại Điều 606 BLDS về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại,cần phải chú ý xác định đúng tư cách đương sự trong từng trường hợp cụ thể như sau:
   -Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự,trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
   -Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha,mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
   -Trong trường hợp quy định đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha,mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan;
   -Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân,tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự.
    3.2.Việc quyết định về bồi thường(lấy tài sản để bồi thường) phải cụ thể và theo đúng quy định tại Điều 606 BLDS.”

3/Liên hệ thực tiễn
   */Những quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng trong thời gian qua đã phát huy có hiệu quả trong giải quyết các vụ việc trên thực tế,đảm bảo được quyền và lợi ích của người bị thiệt hại, góp phần xác định đúng chủ thể phải bồi thường thiệt hại.
   Chẳng hạn như trong tình huống M là sinh viên đại học Z.Khi điều khiển xe máy,do phóng nhanh vượt ẩu nên đã đam vào ông V.Sau khi tai nạn xảy ra,ông V được đưa vào điều trị tại bệnh viện và chi phí chữa trị hết 8 triệu đồng.Theo quy định tạo mục 3.1 mục 3 Phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS năm 2005 thì người gây ra thiệt hại là bị đơn dân sự,trừ trường hợp họ mất năng lực hành vi dân sự.Khoản 1 Điều 606 BLDS 2005 quy định người từ đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.Dựa vào những căn cứ trên thì bị đơn dân sự và người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là M.Trong trường hợp M không có tài sản để bồi thường và việc gây thiệt hại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tại thời điểm đó,người bị thiệt hại tạm thời chấp nhận rủi ro,trừ trường hợp bố mẹ hoặc người thân của M tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho M.
    Ở tình huống A và B (16 tuổi) là học sinh lớp 10 cùng đi học về bằng chiếc xe đạp nam gióng ngang. A ngồi trên yên và đạp ; B ngồi trên gióng ngang điều chỉnh tay lái. Khi đang ngênh ngang phóng xe đạp trên vỉa hè, do mải cười đùa, họ đã đâm xe vào cụ T – 79 tuổi đang đi bách bộ, làm cụ ngã, gẫy cột sống. Mặc dù đã được điều trị nhưng kết quả cụ T do bị trấn thương nặng nên phải nằm liệt, không đi lại được.AB đều 16 tuổi nên theo khoản 2 Điều 606 BLDS 2005, AB phải tự bồi thường bằng tài sản của mình. Trong trường hợp này, cụ T có thể kiện AB với tư cách là bị đơn dân sự. Nếu AB không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ của A, B phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình. Trong trường hợp này, cha, mẹ của A, B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
    Hay như trong tình huống Trường Trung học cơ sở X tổ chức cho các em thiếu nhi lớp 7 đi thăm quan và cắm trại tại Ao Vua. C (12 tuổi) cố tình trêu đùa, đã đẩy D – một bạn gái cùng lớp ngã xuống suối , không ngờ đầu D đập vào đá dẫn đến trấn thương não. D phải đi cấp cứu và nằm điều trị trong bệnh viện nhiều ngày. Bố mẹ D đã làm đơn kiện C ra tòa. Bố mẹ C cho rằng nhà trường cũng phải có trách nhiệm.Theo Điều 621 BLDS 2005 quy định về bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác quản lý, người dưới mười lăm tuổi trong trường hợp học tại trường mà gây thiệt hại thì nhà trường phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp trên, C gây thiệt hại trong thời gian thuộc sự quản lý của nhà trường, vì trường tổ chức cho các cháu đi tham quan, vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về trường trung học cơ sở X. Nếu trường học chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản lý (ví dụ C đã không chấp hành quy định chung, trốn thầy cô ra suối chơi, rồi gây thiệt hại cho D) thì bố mẹ C phải bồi thường.
   */Một số hạn chế
      Theo quy định tại điều 606 BLDS thì người từ đủ 18 tuổi trở lên không tâm thần,không mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức,làm chủ được hành vi của mình khi gây thiệt hại cho người khác thì phải tự bồi thường bằng tài sản của mình.Nhưng xét về thực tế ở Việt nam hiện nay,những cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự và tố tụng dân sự có một phần không nhỏ còn đang theo học các cấp đào tạo nghề,cao đẳng,đại học và trung cấp mà phần lớn trong số họ vẫn được cha,mẹ chu cấp tiền ăn,học,ở và các chi phí phục vụ cho việc học tập.Những người này còn đi học,chưa có việc làm và không có thu nhập,khi họ có hành vi trái pháp luật và gây thiệt hại cho người khác thì nguyên tắc phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời thật khó thực hiện được.Nếu không thực hiện được thì lợi ích của người bị thiệt hại còn tiếp tục bị vi phạm do người gây thiệt hại không có tài sản để bồi thường.Vì vậy,khi quyết định bồi thường đối với những người này có thể động viên cha mẹ bồi thường thay  cho con em họ,nếu cha mẹ tự nguyện ,thì ghi nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha mẹ phải bồi thường thay cho con em họ.
      Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS thì trách nhiệm của cha mẹ người dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên gây ra là trách nhiệm pháp lý,không cần có điều kiện lỗi.Trên thực tế vẫn có những hiểu sai về quy định của pháp luật.Có ý kiến cho rằng cha mẹ của người chưa thành niên dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại do con gây ra là căn cứ vào yếu tố lỗi  của cha mẹ đã không quản lí,quan sát để con mình gây ra thiệt hại.Như vậy là không đúng bản chất của pháp luật và là sự suy đoán.Quy định này thực chất nhằm bảo vệ quyền,lợi ích  hợp pháp của người bị thiệt hại.Tuy nhiên, pháp luật cũng cần phải có những quy định cụ thể hơn nữa để tránh hiểu lầm như trên.











  
  











                          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét