Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

Tìm hiểu vấn đề tuổi trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh của nền kinh tế, đời sống con người cũng ngày một nâng cao. Con người quan tâm hơn tới việc tham gia vào các hợp đồng bảo hiểm để đề phòng rủi ro cho bản thân cũng như cho tài sản có thể xảy ra trong tương lai. Bảo hiểm nhân thọ là sự lựa chọn của nhiều người bởi loại bảo hiểm này mang lại nhiều lợi ích cho con người và nền kinh tế. Bên cạnh yếu tố bảo hiểm, BHNT còn có tính tiết kiệm, giúp bên mua bảo hiểm có thể thực hiện được mục đích của mình khi được doanh nghiệp bảo hiểm trả số tiền bảo hiểm. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, số phí bảo hiểm sẽ được đầu tư có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và góp phần tăng trưởng kinh tế.     
          Có nhiều vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng BHNT mà cả bên bán bảo hiểm cũng như bên mua bảo hiểm cần lưu tâm, trong đó có vấn đề về tuổi. Chính vì lẽ đó, em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu vấn đề tuổi trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian ngắn, kiến thức cũng như tài liệu còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy cô bổ sung để bài làm được hoàn thiện hơn.    

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Khái niệm
Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đã đưa ra khái niệm hợp đồng bảo hiểm khá cụ thể tại khoản 1 điều 12 như sau:
 Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”
Luật kinh doanh bảo hiểm tuy không đưa ra một quy định riêng biệt cho hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhưng có thể định nghĩa hợp đồng bảo hiểm nhân thọ như sau: “Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm về việc doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bảo hiểm cho tuổi thọ của bên được bảo hiểm, theo đó, bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và tương ứng doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả tiền cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết trong thời hạn thoả thuận”. Có thể thấy, định nghĩa này đã nêu một cách khái quát nhất về khái niệm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Là một dạng của hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mang những đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm nói chung và có những điểm riêng biệt đặc trưng của loại hình hợp đồng bảo hiểm này.
Thứ nhất: Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là tuổi thọ của con người – đây là đặc trưng cơ bản nhất của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Thứ hai: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng dài hạn. Khác với hợp đồng tài sản, thường là hợp đồng ngắn hạn với thời hạn thường là 1 năm, thời hạn ngắn nhất của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường là 5 năm. Ví dụ: sản phẩm bảo hiểm Phúc thọ phu thê (Manulife Việt Nam) có thời hạn hợp đồng là 15 năm; sản phẩm bảo hiểm Phú – Trường an (Prudential Việt Nam) có thời hạn hợp đồng là 10 – 65 năm.
Thứ ba: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng có tính tiết kiệm. Người mua bảo hiểm sẽ đóng phí bảo hiểm theo tháng, quý hoặc năm với một số tiền nhỏ, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra hoặc hết thời hạn quy định trong hợp đồng, thì người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng sẽ được nhận lại một số tiền đáng kể (thông thường nhiều hơn tổng số phí bảo hiểm mà người mua bảo hiểm đã đóng). Với sản phẩm Phúc thọ phu thể của Manulife Việt Nam, khoản tiền tiết kiệm bảo đảm tương đương 150% số tiền bảo hiểm sẽ được thanh toán cộng thêm bảo tức và lãi khi hợp đồng đáo hạn, giúp bên được bảo hiểm (người thụ hưởng) chu toàn ước nguyện của tuổi già.
Thứ tư: Sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không hoàn toàn gắn liền với rủi ro xảy ra đối với người được bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm ở đây thông thường bao gồm: người được bảo hiểm bị bệnh tật, bị chấn thương, tử vong, hết hạn hợp đồng bảo hiểm,…. Khi các sự kiện này xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
Thứ năm: Nội dung hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường bao gồm các điều khoản mẫu. Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nội dung hợp đồng đã được bên doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sẵn. Khách hàng muốn giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì bắt buộc phải đồng ý với nội dung có sẵn của doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ sáu: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng thanh toán có định mức. Số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thanh toán cho bên mua bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã lựa chọn để ký kết hợp đồng.
2. Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có nhiều loại khác nhau, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật kinh doanh bảo hiểm, cũng như căn cứ vào tính chất của sự kiện bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được chia thành 3 loại: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
a. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ là loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người được thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ có ba dạng chủ yếu:
- Bảo hiểm có số tiền bảo hiểm được trả sau;
- Bảo hiểm trợ cấp trả sau;
- Bảo hiểm trợ cấp trả ngay.
c. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ là loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người được thụ hưởng nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tử kỳ có ba dạng chủ yếu:
- Bảo hiểm tử kỳ tạm thời;
- Bảo hiểm tử kỳ trường sinh;
- Bảo hiểm tử kỷ có điều kiện.
c. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ kết hợp cả hai loại nghiệp vụ: hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ và hợp đổng bảo hiểm tử kỳ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp bao gồm hai dạng:
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thường;
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp có thời hạn.
II. VẤN ĐỀ TUỔI TRONG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Vấn đề tuổi trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Vấn đề tuổi trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được đặt ra với hai đối tượng, bên mua bảo hiểm và bên được bảo hiểm.
a) Bên mua bảo hiểm.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm:Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.”
Bên mua bảo hiểm là chủ thể đứng tên trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và là người có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm.
Là một dạng của hợp đồng dân sự nói chung, nên việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cũng cần tuân thủ các điều kiện nhất định như trong kí kết hợp đồng dân sự. Cụ thể, bên mua bảo hiểm – chủ thể ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ ở đây, theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, có nghĩa là, bên mua bảo hiểm phải từ đủ 18 tuổi trở lên và không mắc các bệnh làm hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ vô hiệu nếu có một trong các điều kiện vô hiệu của hợp đồng. Trong đó có vấn đề điều kiện của chủ thể ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Vì vậy, điều kiện về tuổi, trong trường hợp này, có ý nghĩa quyết định tới việc có hoặc không có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
b) Bên được bảo hiểm.
Khoản 7 điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định:
 Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng.”
Với đặc trưng – đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là tuổi thọ của con người nên người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chỉ có thể là cá nhân. Hay nói cách khác, người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là cá nhân có tuổi thọ được bảo hiểm trong hợp đồng.
Luật kinh doanh bảo hiểm cũng như các văn bản khác không giới hạn quy định về độ tuổi của người được bảo hiểm, tuy nhiên, trong trường hợp giao kết hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm:
“2. Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của những người sau đây:
a) Người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó đồng ý bằng văn bản;
b) Người đang mắc bệnh tâm thần.”
Vấn đề tuổi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ chỉ đặt ra khi giao kết hợp đồng bảo hiểm tử kỳ hoặc bất cứ hình thức bảo hiểm nào khác có kèm theo trường hợp chết cho người khác theo Luật kinh doanh bảo hiểm.
Trên thực tế thì việc độ tuổi của người được bảo hiểm là vấn đề mà doanh nghiệp bảo hiểm rất lưu tâm, nó ảnh hưởng tới việc chấp nhận hay không chấp nhận bảo hiểm cũng như mức phí của hợp đồng bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của các doanh nghiệp chỉ thích hợp để áp dụng cho một số độ tuổi nhất định. Độ tuổi của người được bảo hiểm là một điều kiện quan trọng để doanh nghiệp bảo hiểm đi đến quyết định có thực hiện giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hay không.
2. Vấn đề tuổi trong thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
a) Nghĩa vụ cung cấp thông tin về tuổi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Nghĩa vụ cung cấp thông tin là nghĩa vụ đầu tiên và cũng là nghĩa vụ cơ bản của bên mua bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Tuổi thọ là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, vì lẽ đó, việc cung cấp thông tin về tuổi của người được bảo hiểm càng trở nên quan trọng hơn. Đối tượng là tuổi thọ của con người là đối tượng không định giá được bằng tiền. Hơn nữa, mức độ rủi ro liên quan đến tuổi thọ của người được bảo hiểm là rất khó xác định bởi nó bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, cả yếu tố khách quan và chủ quan.
b) Hậu quả pháp lý khi người mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Tuổi của người được bảo hiểm là cơ sở tính phí bảo hiểm. Khi bên mua bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách chính xác, cụ thể là khai báo sai tuổi của người được bảo hiểm, thì tất yếu sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định, điều này được cụ thể hoá tại khoản 2 Điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm:
Thứ nhất, trong trường hợp người mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của người được bảo hiểm, mà tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm đã giao kết đồng thời hoàn trả số phí mà bên mua bảo hiểm đã đóng trừ đi các chi phí có liên quan.
Thứ hai, trong trường hợp bên mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của bên được bảo hiểm làm giảm số phí bảo hiểm phải đóng và tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi được bảo hiểm, thì doanh  nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm đóng bổ sung số phí còn thiếu tương đương với số tiền đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc giảm số tiền bảo hiểm đã thoả thuận tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng.
Thứ ba, trong trường hợp bên mua bảo hiểm khai báo sai tuổi của bên được bảo hiểm làm tăng số phí bảo hiểm phải đóng và tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi được bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả lại phần phí vượt quá mà bên mua bảo hiểm đã đóng hoặc tăng số tiền bảo hiểm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm tương ứng với số phí bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng.
III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH TUỔI TRONG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Những ưu điểm đạt được
Thứ nhất: Trong các thông tin về người được bảo hiểm, độ tuổi của người được bảo hiểm được coi là thông tin quan trọng nhất và không thể thiếu đối với mọi loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Điều 34 Khoản 1 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “ Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ phải thông báo chính xác tuổi của người được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm để làm cơ sở tính phí bảo hiểm.”
Quy định này là cần thiết vì theo quy luật tự nhiên cũng như theo kết quả thống kê của hầu hết các bảng tỉ lệ tử vong cho thấy tỉ lệ tử vong của con người tăng khi tuổi tăng ( trừ lứa tuổi từ sơ sinh đến 10 tuổi). Độ tuổi của người được bảo hiểm do đó có ảnh hường trực tiếp đến việc đánh giá rủi ro và ra quyết định chấp nhận bảo hiểm hay không của doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ hai: Luật kinh doanh bảo hiểm quy định điều kiện về tuổi đối với người giao kết hợp đồng bảo hiểm là người từ đủ mười tám (18) tuổi trở lên tại thời điểm nộp hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, đang cư trú tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự. Điều này là hợp lý và thống nhất với luật chung về điều kiện giao kết hợp đồng và cũng là yếu tố quan trọng để hợp đồng đó có hiệu lực.
Ngoài ra, Luật kinh doanh bảo hiểm cũng đề cập đến những dự liệu trong trường hợp bên mua bảo hiểm khai sai tuổi dẫn đến việc giảm số phí bảo hiểm phải đóng để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tăng số phí bảo hiểm phải đóng để bảo vệ quyển lợi của của bên mua bảo hiểm.
2. Những hạn chế, bất cập trong việc xác định tuổi trong giao kết và thực hiện hợp đồng
a) Sự thiếu nhất quán trong quy định của pháp luật giữa khoản 2 Điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm với Bộ luật dân sự 2005.
Thứ nhất: Khoản 2, Điều 34 Luật KDBH đưa ra chế tài đối với bên mua bảo hiểm có hành vi thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm là “hủy bỏ hợp đồng” nhưng lại áp dụng hai hậu quả pháp lý hoàn toàn khác nhau và không đúng bản chất của hủy bỏ hợp đồng được quy định tại Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo đó: “1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. ... 3. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải trả bằng tiền. 4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại”
Về mặt nguyên tắc, hậu quả pháp lý của hợp đồng bị hủy bỏ cũng giống như hợp đồng vô hiệu. Có nghĩa là hợp đồng coi như chưa được giao kết, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên (đối với hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại hay trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, khách hàng không có nghĩa vụ phải đóng phí bảo hiểm) và các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như khi chưa có hợp đồng. Trong trường hợp này, do là bên có lỗi nên bên mua bảo hiểm phải bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm những chi phí hợp lý có liên quan mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Vì vậy, nếu bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm thì phải chịu hậu quả pháp lý - nhận giá trị hoàn lại nếu hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên (Khoản 2, Điều 34 Luật KDBH) là không đúng với bản chất của hợp đồng bị huỷ bỏ được quy định tại Bộ luật Dân sự. Bởi vì, quy định việc hoàn trả giá trị hoàn lại nghĩa là đồng thời công nhận hợp đồng bảo hiểm đó vẫn có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết đến khi bị hủy. Và như vậy, nếu rủi ro của khách hàng xảy ra trước thời điểm hợp đồng bị hủy doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải bồi thường thiệt hại hoặc trả tiền bảo hiểm. 
Thứ  hai: Việc loại trừ trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với rủi ro của người được bảo hiểm xảy ra trước thời điểm hợp đồng bị hủy bỏ là vấn đề rất quan trọng, tuy nhiên Khoản 2, Điều 34 Luật KDBH lại không quy định về những vấn đề này.
b) Bên mua bảo hiểm khai sai tuổi khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm không phân biệt rõ việc thông báo sai tuổi là do lỗi vô ý hay cố ý nhưng trên thực tế, về mối quan hệ gần gũi giữa người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm, rất khó có thế tin rằng bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm hoàn toàn do lỗi vô ý. Do vậy, nếu bên mua bảo hiểm cố ý thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm cũng chính là hành vi lừa dối nhằm giao kết hợp đồng
Hậu quả pháp lý: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý liên quan hoặc hoàn trả giá trị hoàn lại của hợp đồng nếu hợp đồng đã có hiệu lực 02 năm trở lên.
Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều tranh chấp xảy ra xuất phát từ bên mua bảo hiểm cố ý khai sai tuổi của người được bảo hiểm nhằm giảm phí bảo hiểm.
IV. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TUỔI KHI GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Sửa đổi khoản 2 Điều 34 Luật kinh doanh bảo hiểm cho nhất quán với các quy định của BLDS và đảm bảo được quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm
Điều 34 Khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương hủy bỏ hợp đồng do bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm là “ doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm” nếu hợp đồng đã có hiệu lực từ hai năm trở lên. Quy định này một mặt không phù hợp với quy định tại Điều 425 BLDS về hủy bỏ hợp đồng, mặt khác chưa đảm bảo quyền được cung cấp thông tin của doanh nghiệp bảo hiểm.
Để bảo vệ thỏa đáng quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, có thể sửa đổi Điều 34 Khoản 2 Luật kinh doanh bảo hiểm theo hướng: cần phân biệt hai trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi do lỗi cố ý hoặc do lỗi vô ý và quy định hậu quả pháp lý tương ứng với mức độ lỗi của bên mua bảo hiểm như sau:
Điều 34. Thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ.
2.Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và quyền lợi của các bên được giải quyết như sau:
a.Nếu bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm do lỗi vô ý, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi các chi phí hợp lý liên quan đến giá trị hoàn lại của hợp đồng nếu hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã có hiệu lực từ 02 năm trở lên.
b. Nếu bên mua bảo hiểm cố ý thông báo khai sai tuổi của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đình chỉ hợp đồng.”
Ngoài ra, Khoản 2 Điều 34 cũng nên bổ sung những quy định về việc loại trừ trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với rủi ro của người được bảo hiểm xảy ra trước thời điểm hợp đồng bị hủy bỏ.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm cần thận trọng hơn nữa trong việc kiểm tra, xác định các thông tin về tuổi của người giao kết hợp đồng và tuổi của người được bảo hiểm do bên mua bảo hiểm cung cấp
Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu dựa trên các thông tin do bên mua bảo hiểm tự kê khai để quyết định có chấp nhận bảo hiểm hay không. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại chưa chú trọng đến việc kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của những thông tin này dẫn đễn trường hợp người giao kết hợp đồng khai gian tuổi của mình khi ký kết cũng như khai gian tuổi của người sẽ được bảo hiểm mà hậu quả pháp lý có thể đưa đến việc hủy bỏ hợp đồng. Chính vì thế mà các doanh nghiệp bảo hiểm để tránh rủi ro trong trường hợp bên mua bảo hiểm khai sai tuổi để giảm phí bảo hiểm phải đóng nên coi việc kiểm tra, xác minh các thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp về tuổi của người được bảo hiểm là việc cần phải thực hiện một cách chính xác hơn nữa.

KẾT LUẬN
Có thể thấy, pháp luật ngày một có những quy định hoàn thiện hơn về kinh doanh bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nói riêng. Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định về vấn đề tuổi trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, một mặt sẽ bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm, mặt khác cũng góp phần thúc đẩy cho kinh doanh bảo hiểm phát triển hơn trong tương lai.    







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét