Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

TÌM HIỂU PHÁP LUẬT VÊ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN

Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, hiện nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì quy luật cạnh tranh cũng trở nên gay gắt. Các doanh nghiệp mọc lên như nấm và đều mong muốn có chỗ đứng trên thị trường. Chính vì vậy, việc huy động vốn nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa dịch vụ để tăng cường khả năng cạnh tranh được các doanh nghiệp quan tâm.
Trong các loại hình doanh nghiệp thì CTCP có ưu thế hơn hẳn về phương thức huy động vốn. Thông qua hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng chỉ trong một thời gian ngắn, CTCP đã vượt xa các công ty khác về khả năng tận dụng các nguồn vốn trong xã hội. Có nhiều phương thức để CTCP có thể tiến hành huy động vốn.Tuy nhiên, pháp luật về huy động vốn của CTCP cần phải có những quy định chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư. Vì vậy, việc tìm hiểu và vận dụng những quy định của pháp luật huy động vốn trong CTCP vào thực tiễn là hết sức quan trọng. Trong bài tiểu luận này, em xin đi sâu vào “Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần”. Bài viết còn nhiều thiếu sót, mong được sự góp ý của thầy cô.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CTCP VÀ VỐN CỦA CTCP
          Từ phương diện khoa học pháp lý có thể hiểu khái quát: CTCP là loại hình công ty đối vốn; vốn điều lệ của công ty được chia thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần; người sở hữu cổ phần là cổ đông công ty, chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần mà cổ đông nắm giữ.
Thứ nhất, về thành viên công ty: CTCP không quy định số cổ đông tối đa mà chỉquy định số cổ đông tối thiểu cần có để thành lập công ty. LDN 2005 quy định số cổ đông tối thiểu để thành lập công ty là 3 cổ đông. Con số tối thiểu này tạo điều kiện cho các cá nhân dễ dàng tham gia vào thành lập và quản lý doanh nghiệp. Mặt khác đây cũng là dấu hiệu phân biệt CTCP với các loại hình doanh nghiệp còn lại.Thành viên CTCP là cá nhân, tổ chức góp vốn vào công ty bằng cách mua cổ phần.
Thứ hai, về cấu trúc vốn của CTCP: Vốn điều lệ của CTCP là số vốn do tất cả các cổ đông góp được ghi vào điều lệ công ty. Đó là cam kết về trách nhiệm của công ty trước công chúng. Giá trị ban đầu của mỗi cổ phần là mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và được phản ánh trong cổ phiếu. Cổ phiếu được thể hiện dưới hình thức tờ cổ phiếu hoặc bút toán ghi sổ.Việc góp vốn vào công ty được thực hiện thông qua việc mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần.
Thứ ba, về chuyển nhượng phần vốn góp: Các cổ đông của CTCP được tự do chuyển nhượng vốn góp của mình thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần trừ một số trường hợp đặc biệt theo luật định. Do đó, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty.
Thứ tư, về chế độ trách nhiệm tài sản của công ty: Công ty phải chịu trách nhiệm một cách độc lập với các nghĩa vụ tài sản và các khoản nợ bằng toàn bộ tài sản của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ khác của công ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty.
Thứ năm, CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn: Trong quá trình hoạt động, CTCP có quyền phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ để huy động vốn. Quy định này khiến cho CTCP có ưu thế hơn hẳn các loại hình doanh nghiệp khác trong việc thu hút vốn đầu tư từ công chúng cho hoạt động kinh doanh.
Thứ sáu, CTCP là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 77 LDN 2005 thì CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Có nghĩa là CTCP tồn tại độc lập với tư cách chủ thể khác về mặt pháp lý và có tài sản riêng tách bạch với toàn bộ tài sản của các cổ đông; tự mình tham gia vào các quan hệ pháp luật bằng chính tư cách của mình chứ không phải nhân danh bất cứ chủ thể nào khác.Khi nhân danh chính mình, công ty sẽ được hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ phát sinh đến hết giá trị tài sản của công ty.
Thứ bảy, về tổ chức quản lý của CTCP: Cơ chế quản lý CTCP được pháp luật quy định có phần phức tạp hơn và chặt chẽ hơn so với các loại hình kinh doanh khác. CTCP có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý.Bởi vì đây là loại hình công ty có số lượng cổ đông đông đảo, vấn đề quản trị phức tạp, các cổ đông không quan tâm tới nhân thân của nhau mà chỉ quan tâm tới phần vốn góp mà họ nắm giữ.Tuy nhiên trong thực tế, quyền lực cao nhất vẫn thuộc về đại hội đồng cổ đông - những người chủ sở hữu công ty thông qua việc biểu quyết các vấn đề quan trọng.
          Trong khoa học pháp lý hiện nay có khá nhiều quan điểm khác nhau về vốn.Trên phương diện khoa học tài chính, vốn của doanh nghiệp được quan niệm là vốn kinh doanh và là cơ sở vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp. Là giá trị của toàn bộ tài sản được đầu tư vào hoạt động của công ty, được công ty sử dụng trong kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Xét trên phương diện cấu trúc, vốn của doanh nghiệp nói chung và của CTCP nói riêng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cấu trúc vốn của CTCP có thể xem xét từ hai khía cạnh khác nhau là: nguồn hình thành vốn và công dụng kinh tế của tài sản.
Căn cứ vào công dụng kinh tế và sự luân chuyển của tài sản, cấu trúc vốn của CTCP được chia thành: vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính. CTCP có quyền quyết định cơ cấu vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính của công ty phù hợp với tính chất ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh.
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn có thể chia cấu trúc vốn của CTCP thành: vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần) và vốn tín dụng (vốn vay).
 2.1. Vốn chủ sở hữu của CTCP
          Vốn chủ sở hữu là chỉ số kinh tế phản ánh khả năng tài chính thực sự của CTCP. Vốn chủ sở hữu được hình thành từ nguồn đóng góp của các cổ đông khi thành lập công ty và công ty huy động trong quá trình hoạt động. Bộ phận chủ yếu cấu thành nên vốn chủ sở hữu là vốn điều lệ.Vốn điều lệ thể hiện những đặc trưng nhất của cấu trúc vốn CTCP. Là số vốn do tất cả các cổ đông góp và được ghi vào điều lệ công ty, bắt buộc phải chia thành nhiều phần có giá trị bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần tùy công ty quyết định.
- Cổ phần phổ thông: Là loại cổ phần bắt buộc phải có của CTCP. Cổ phiếu phản ánh cổ phần phổ thông là loại chứng khoán không có kỳ hạn. Nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó. Cổ phần phổ thông không có mức lãi suất cố định, lãi suất được chia vào cuối niên độ thanh toán gọi là cổ tức. Số cổ tức được chia bao nhiêu cho một cổ phần tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và do công ty quyết định. Cổ đông phổ thông có quyền tham gia biểu quyết - quyết định mọi vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của công ty và có quyền tự do chuyển quyền sở hữu của mình đối với công ty cho người khác thông qua việc chuyển quyền sở hữu các cổ phần.
          - Cổ phần ưu đãi: là cổ phần có tính chất pháp lý khác biệt so với cổ phần phổ thông. Người chủ sở hữu cổ phần ưu đãi được hưởng một số quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ thông và chịu những hạn chế một cách tương xứng. CTCP có thể phát hành những cổ phần ưu đãi sau:
          + Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ phần có số biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông (số biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định).
          + Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất kỳ khi nào theo yêu cầu của chủ sỡ hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại.
          Ngoài ra công ty có thể quyết định phát hành các loại cổ phần ưu đãi khác như: cổ phần ưu đãi mua lại, cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi…
          Đối với cổ phần phổ thông thì đòi hỏi CTCP phải phát hành ngay từ khi thành lập công ty, còn cổ phần ưu đãi thì pháp luật không quy định mà cho phép công ty phát hành tùy vào điều kiện kinh tế cụ thể của từng công ty. Trong quá trình hoạt động, CTCP có thể phát hành các loại cổ phần để huy động vốn. Chính vì vậy mà CTCP có thể thiết lập một cơ chế huy động vốn linh hoạt, đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng khác nhau của nhà đầu tư.
2.2. Vốn tín dụng (vốn vay)
          Là vốn mà công ty đi vay để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và phải hoàn trả cả vốn và lãi khi hết thời hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc ghi nhận trên một giấy tờ có giá trị nào đó. Xét trên phương diện tài chính, vốn vay là khoản nợ công ty và được hạch toán vào tài sản nợ trong quá trình luân chuyển vốn vay trong công ty. Công ty có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt số tiền vay trong thời hạn đi vay. Tuy nhiên vốn vay không phản ánh khả năng tài chính thực sự của công ty. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không những ở khả năng tài trợ những nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay.
          CTCP có quyền lựa chọn nhiều cách thức khác nhau để huy động vốn vay, trong đó cách thức quan trọng và thể hiện ưu thế của CTCP là phát hành trái phiếu.

II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CTCP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005

          CTCP có thể lựa chọn nhiều phương thức huy động vốn khác nhau như: phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, vay vốn ngân hàng, vay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước...Tuy nhiên trong các phương thức huy động vốn nói trên thì phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu là hai phương thức phản ánh được nét đặc trưng trong cơ cấu vốn của CTCP, đồng thời thể hiện được thế mạnh về khả năng huy động vốn của CTCP so với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì vậy, LDN 2005 cũng như các luật trước đó khi điều chỉnh vấn đề huy động vốn của CTCP chỉ đề cập đến hai phương thức này.

1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu

          Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu là một quyền năng cơ bản của CTCP. Phương thức này cho phép huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có được số vốn lớn và ổn định cho hoạt động của CTCP.Thực chất của phát hành cổ phiếu chính là việc CTCP chào bán cổ phần để huy động vốn.
          Theo LDN 2005, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP. Cổ phần của CTCP có thể tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Trong cổ phần ưu đãi lại bao gồm nhiều loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định. Còn cổ phiếu là sự biểu hiện về mặt hình thức của cổ phần. Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Tùy từng loại cổ phiếu mà pháp luật hay Điều lệ công ty quy định phải ghi tên hay không. Mỗi cổ phiếu có thể xác nhận một cổ phần hay một số cổ phần, tuy nhiên về cơ bản thì một cổ phiếu gồm những nội dung sau: Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Số lượng cổ phần và loại cổ phần; Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu;Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của cổ đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên; Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần; Chữ ký mẫu của người đại diện theo phép luật và dấu của công ty; Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu; Các nội dung khác theo quy định tại điều 81, 82 và 83 LDN 2005 đối với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi.
          CTCP cần có sự cân nhắc cổ phần của từng loại được quyền chào bán. Bởi trên thực tế việc phát hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện hữu trong công ty và có thể làm thay đổi cơ cấu tổ chức trong CTCP.
1.1. Phương thức phát hành của cổ phiếu
LDN 2005 quy định hai phương thức phát hành cổ phiếu đó là: phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành cổ phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên, các nội dung cụ thể của phát hành cổ phiếu ra công chúng, LDN 2005 không trực tiếp điều chỉnh mà do pháp luật về chứng khoán, về thị trường chứng khoán điều chỉnh gồm điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán.
a) Phát hành cổ phiếu ra công chúng
          Căn cứ vào Khoản 12 điều 6 Luật Chứng khoán 2006 về chào bán chứng khoản ra công chúng thì phát hành cổ phiếu ra công chúng thực hiện theo các phương thức sau đây:
1. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng
2. Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
3. Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.    
          Khi thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng thì  CTCP được gọi là công ty đại chúng. Do được bán rộng rãi cho tất cả các nhà đầu tư có nhu cầu trong xã hội nên để bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm nên CTCP khi thực hiện phát cổ phiếu theo phương thức này phải chịu sự ràng buộc của pháp luật về chứng khoán. CTCP phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ giám sát của pháp luật. Về hình thức thì phát hành cổ phiếu ra công chúng được pháp luật phân biệt giữa phát hành cổ phiếu lần đầu và phát hành thêm cổ phiếu bổ sung.
b) Phát hành cổ phiếu riêng lẻ
          Trước đây, việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ thường để chào bán cho những cổ đông trong CTCP nhằm huy động thêm vốn điều lệ. Nhưng hiện nay, việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ không chỉ hướng tới các thành viên trong CTCP mà còn mở rộng ra các nhà đầu tư bên ngoài có nhu cầu. Do đó, để đảm bảo thị trường chứng khoán phát triển ổn định, sôi nổi và để đưa phương thức này đi vào khuôn khổ có sự quản lý của pháp luật thì Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy định về chào bán cổ phần riêng lẻ.
          Căn cứ vào Khoản 1 Điều 4 NĐ 01/2010/NĐ-CP có thể hiểu chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng sau:
1. Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
2. Dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
          Thông thường các nhà đầu tư chứng khoán này là các khách hàng đặc biệt như các các công ty bảo hiểm, công ty đầu tư chứng khoán...So với cổ phiếu công chúng thì cổ phiếu riêng lẻ chỉ bán cho phạm vi các nhà đầu tư được chọn lọc từ trước với số lượng hạn chế, nhằm huy động thêm một lượng vốn nhỏ hoặc cần tăng vốn điều lệ mà không muốn thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng (phải cần đến chi phí phát hành lớn).
1.2. Điều kiện phát hành cổ phiếu
          Vì việc phát hành cổ phiếu có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động của thị trường chứng khoán và tác động tới cơ cấu tổ chức của CTCP nên LDN 2005 yêu cầu CTCP phát hành phải đáp ứng được các điều kiện:
Đối với cổ phần phổ thông, LDN năm 2005 quy định: “Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán  đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Yêu cầu này đặt ra thường nhằm vào các CTCP mới thành lập và thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu. Đối với các công ty này, đây là thời điểm công ty chưa khẳng định được năng lực hoạt động của mình cũng như khả năng tài chính để bảo đảm an toàn trong các quan hệ với đối tác bên ngoài và với công chúng đầu tư. Do đó pháp luật phải đưa ra các quy định để gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của các cổ đông sáng lập với lợi ích của công ty và đề cao trách nhiệm của họ trong giai đoạn đầu thành lập CTCP đối với công chúng đầu tư.
          Giá chào bán cổ phiếu được LDN 2005 quy định: “Giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá được ghi trong sổ sách của công ty cổ phần tại thời điểm gần nhất”. Giá chào bán cổ phiếu là giá của cổ phiếu do CTCP tự xác định để công ty thực hiện bán đấu giá cổ phiếu trên thị trường hoặc để mời các nhà đầu tư mua cổ phiếu của mình. Còn giá cổ phiếu trên thị trường là giá giao dịch của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Giá thị trường của cổ phiếu phản ánh giá trị thực của cổ phần. Bởi vậy, hiện nay LCK 2006 chỉ quy định mệnh giá cho cổ phiếu chào bán lần đầu là 10.000 đồng để làm đại lượng xác định vốn điều lệ của CTCP khi thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu. Việc LDN 2005 đưa ra giá chào bán cổ phần như trên là để đảm bảo việc chào bán cổ phiếu của CTCP cho các cổ đông được thực hiện một cách công bằng và hạn chế việc CTCP tạo ra các ưu thế cho các cổ đông có ưu đãi và những bất lợi cho các cổ đông khác.
          Bên cạnh quy định cứng về giá chào bán cổ phiếu ở trên thì LDN 2005 vẫn đưa ra một vài ngoại lệ cho CTCP được chào bán cổ phần với giá thấp hơn quy định, đó là các trường hợp:
1. Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập
2. Cổ phần chào bán cho tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty
3. Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
4. Các trường hợp khác và mức chiết khấu trong các trường hợp đó do Điều lệ công ty quy định.
          Ngoài ra, LDN cho phép nếu cổ đông của công ty không có nhu cầu thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của công ty thì các cổ đông này được chuyển quyền ưu tiên mua của mình cho người khác để tạo điều kiện cho CTCP khi phát hành cổ phiếu riêng lẻ có thể bán hết số cổ phiếu dự định phát hành. Người mua cổ phiếu phải là những đối tượng đã được công ty xác định từ trước.
a) Phát hành cổ phiếu ra công chúng
CTCP phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, CTCP muốn chào bán cổ phiếu phải có tiềm lực tài chính, thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán cổ phiếu. Mức vốn điều lệ mà CTCP phải thỏa mãn là 10 tỉ VNĐ tính theo sổ sách ghi trên sổ kế toán.
Thứ hai, CTCP có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là công ty kinh doanh có hiệu quả. Điều đó phải được thể hiện cụt hể ở kết quả kinh doanh của công ty đó vào năm liền trước năm đăng ký chào bán. Kết quả kinh doanh của CTCP phải được xem xét trên cả hai phương diện: năm liền kề trước đó CTCP phải có lãi và công ty không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu.
Thứ ba, CTCP dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải có sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông về phương án phát hành và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt chào bán. Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo Đại hội đồng cổ đông của công ty phát hành được quyền quyết định cao nhất đối với định hướng phát triển của CTCP đã quy định trong LDN 2005.
b) Phát hành cổ phiếu riêng lẻ
Theo Điều 8 Chương 3 của NĐ 01/2010/NĐ-CP thì điều kiện để CTCP có thể phát hành cổ phiếu riêng lẻ là:
Thứ nhất, phải là CTCP hoặc các doanh nghiệp chuyển đổi thành CTCP, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành CTCP.
          Thứ hai, phát hành cổ phiếu riêng lẻ không tác động tới sự thay đổi về quyền lợi cổ đông hiện hữu và cơ cấu tổ chức của CTCP như phát hành ra công chúng. Do đó, ngay trong quyết định thông qua phương án chào bán và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ thì chỉ cần Hội đồng quản trị thông qua. Vì số lượng người mua nhất định nên trong phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.
Thứ ba, có hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ gửi tới cơquan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
Thứ tư, các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít nhất sáu tháng.
Thứ năm, đảm bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư, trong trường hợp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.
1.3. Thủ tục tiến hành
          Thủ tục tiến hành phát hành cổ phiếu của CTCP không được LDN 2005 quy định cụ thể nhưng theo các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì dù phát hành theo phương thức riêng lẻ hay ra công chúng thì phải tuân theo ba bước sau đó là: đăng ký chào bán cổ phiếu, công bố thông tin trước khi phát hành và phân phối chứng khoán.
a) Đăng ký chào bán cổ phiếu
Để được chào bán cổ phiếu thì CTCP phát hành phải chuẩn bị hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu gửi tới UBCKNN. Tùy từng phương thức phát hành mà CTCP phải chuẩn bị hồ sơ theo yều cầu của LCK 2006 để được cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Nếu là phát hành cổ phiếu riêng lẻ thì CTCP chuẩn bị bộ hồ sơ theo yêu cầu của Nghị định số 01/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ và chỉ cần được sự đồng ý của UBCKNN hoặc sau 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn mà pháp luật quy định thì CTCP được tiến hành chào bán cổ phiếu.
b) Công bố thông tin trước khi phát hành cổ phiếu
          Công bố thông tin là một nghĩa vụ bắt buộc đối với CTCP khi phát hành cổ phiếu để đảm bảo yêu cầu về tính công khai, minh bạch của hoạt động này.
* Phát hành cổ phiếu ra công chúng: CTCP sau khi được cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng phải công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về đợt phát hành và cung cấp nội dung của bản cáo bạch có trong hồ sơ đăng ký chào bán tới công chúng đầu tư. Bản cáo bạch ung cấp cho công chúng đầu tư những thông tin cần thiết về bản thân CTCP phát hành như: tổ chức bộ máy quản lý, báo cáo tài chính, năng lực hoạt động và các thông tin khác về đợt chào bán để các nhà đầu tư có thể đánh giá được rủi ro của cổ phiếu đó mà có quyết định đầu tư đúng đắn. Hơn nữa khách hàng của phương thức phát hành này bao gồm các nhà đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Do đó nếu không quy định chặt chẽ về việc công bố thông tin của CTCP phát hành thì sẽ gây bất lợi lớn cho các nhà đầu tư không chuyên nghiệp vì bản thân họ không có nhiều hiểu biết về tính rủi ro của từng loại chứng khoán.
* Phát hành cổ phiếu riêng lẻ: LDN 2005 quy định: “CTCP phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của họ. Thông báo phải được đăng báo ba số liên tiếp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo”. Quy định này nhằm đảm bảo tính công khai, công bằng của đợt phát hành vì không phải cổ đông nào trong CTCP cũng được tham gia vào các cơ quan quản lý của công ty để biết được các quyết định hay hoạt động cụ thể mà công ty định tiến hành. Nghị định số 01/2010/ND-CP thì yêu cầu CTCP phát hành cổ phiếu theo phương thức này không được công bố thông tin có nội dung quảng cáo về đợt phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo đúng bản chất của phát hành cổ phiếu riêng lẻ.
c) Phân phối cổ phiếu
          Việc phân phối cổ phiếu được LDN 2005 quy định “Sau khi cổ phần được bán, CTCP phát hành phải trao cổ phiếu cho người mua.Công ty có thể bán cổ phần mà không trao cổ phiếu (phát hành cổ phiếu dưới dạng bút toán ghi sổ).Trong trường hợp này, các thông tin về cổ đông chỉ cần ghi vào sổ đăng ký cổ đông để chứng thực quyền sở hữu cổ phần của cổ đông đó trong công ty”.

2. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu

          Trái phiếu là loại chứng khoán mà CTCP sử dụng để huy động vốn vay trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của CTCP
          Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được quy định tại Khoản 1 Điều 88 LDN 2005 như sau: “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”. Có nghĩa là trong quá trình hoạt động, CTCP có thể lựa chọn phát hành nhiều loại chứng khoán khác nhau như: trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi…để huy động vốn vay cho mình.
          Theo Khoản 3 Điều 6 LCK 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Nếu cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu cổ phần trong CTCP thì trái phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền người sở hữu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn. Do đó, người mua trái phiếu của CTCP không có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty và cũng không trở thành cổ đông của công ty như việc mua cổ phiếu.
          Dù phát hành trái phiếu không làm ảnh hưởng tới cơ cấu của CTCP và địa vị của các cổ động hiện hữu nhưng nó lại ảnh hưởng tới sự tồn tại, hoạt động của công ty cũng như trách nhiệm của các cổ đông đối với khoản nợ của công ty.
2.1. Phương thức phát hành của trái phiếu
          Theo LCK 2006, CTCP có quyền phát hành trái phiếu theo hai phương thức: phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Phát hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ thì tuân thủ theo quy định của LDN 2005. Còn với phát hành trái phiếu ra công chúng thì luật không phân biệt về hình thức phát hành lần đầu và phát hành thêm trái phiếu giống như phát hành cổ phiếu.
2.2. Điều kiện phát hành trái phiếu
a) Phát hành trái phiếu ra công chúng
Ngoài việc phải thỏa mãn các điều kiện về vốn điều lệ, kết quả kinh doanh, kế hoạch huy động cũng như sử dụng vốn huy động, CTCP còn phải đáp ứng thêm các điều kiện khác như: không có các khoản nợ quá hạn trên 1 năm, phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của công ty với nhà đầu tư. Phương án phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ cần có sự thông qua của Hội đồng quản trị thay vì phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông như trong phát hành cổ phiếu ra công chúng. Do việc phát hành trái phiếu ra công chúng không ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ ảnh hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Vì vậy, chỉ cần hội đồng quản trị với tư cách là cơ quan quản lý của công ty thông qua.
b) Phát hành trái phiếu riêng lẻ
          Khoản 2 điều 88 LDN 2005 đã đưa ra các trường hợp CTCP không được phát hành trái phiếu:
1. Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước đó
2. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
          Quy định này được đưa ra để loại bỏ việc tham gia phát hành trái phiếu của những CTCP không có đủ năng lực trả nợ nhằm ngăn chặn rủi ro tiềm tàng cho các nhà đầu tư. Vì phát hành trái phiếu là một phương thức vay nợ có bảo đảm của CTCP nhưng người cho vay lại chỉ được cầm một tờ chứng chỉ mà không phải là tài sản bảo đảm. Do đó, nếu CTCP mất khả năng trả nợ thì người mua trái phiếu của CTCP sẽ gặp khó khăn như những người đi vay tài sản không có bảo đảm khác.
          Dưới góc độ của một hoạt động phát hành chứng khoán và hoạt động vay vốn thì việc phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
          - Đáp ứng yêu cầu về thời hạn hoạt động kinh doanh tối thiểu.Thông thường là ít nhất 1 năm để có thể chứng minh được thực lực của CTCP trong thời gian đã qua và khẳng định tiềm lực của CTCP trong thời gian sắp tới.
          - Phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán để đáp ứng yêu cầu về tài chính minh bạch.
          - Kinh doanh có lãi ở năm liền kề trước năm phát hành.
          - Có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ đã được Hội đồng quản trị công ty thông qua.
2.3. Thủ tục tiến hành
a) Phát hành trái phiếu ra công chúng: gồm 3 bước là đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối chứng khoán. Đối với hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu chỉ cần có quyết định của Hội đồng quản trị. Và phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, tham toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
b) Phát hành trái phiếu riêng lẻ
          LDN không quy định.Song với bản chất phát hành trái phiếu riêng lẻ là phát hành trái phiếu để vay vốn của những nhà đầu tư định trước nên nó khá giống với hoạt động vay thông thường. Bao gồm 2 bước: công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối trái phiếu
- Công bố thông tin trước khi phát hành: nhằm đảm bảo hoạt động phát hành công khai, minh bạch, công bằng và bảo vệ quyền  cũng như lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Bao gồm: công khai báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm phát hành làm cơ sở cho nhà đầu tư; công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của mình đối với người sở hữu trái phiếu.
- Phân phối trái phiếu: thông qua công ty hoặc tổ chức trung gian. Thông thường việc phân phối trái phiếu riêng lẻ được thực hiện theo phương thức đầu thấu. Việc đấu thầu trái phiếu có thể được tiến hành trực tiếp tại công ty hoặc thông qua tổ chức trung gian hoặc qua trung tâm giao dịch chứng khoán
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng được các điều kiện: có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Ngoài ra, công ty có thể được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Có hai hình thức cho vay vốn là vay có bản đảm và vay không có bảo đảm.
- Vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của CTCP được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng.
+ Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP dùng tài sản (bất động sản thuộc sở hữu của mình) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.
+ Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP có nghĩa vụ giao tài sản (động sản thuộc sở hữu của mình) cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho CTCP nếu khi đến hạn trả nợ mà công ty không trả số nợ nợ vay cho ngân hàng.
Khi vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải lập hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
- Vay không có bảo đảm bằng tài sản: CTCP cũng có thể được ngân hàng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất khi đáp ứng đủ các yêu cầu quy định của pháp luật.
Trên thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng khó tiếp cận vốn vay ngân hàng. Cho nên xuất hiện các công ty cho thuê tài chính như một giải pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp.Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.Tổ chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng một tài sản cụ thể để bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thoả thuận. Hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu được chuyển giao cho bên thuê.
Có nhiều cách phân loại cho thuê tài chính. Tuy nhiên, để làm nổi bật bản chất tín dụng, hoạt động cho thuê tài chính có thể được phân loại như sau:
- Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê: là phương thức cho thuê tài chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê. Khi kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng và khi chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao
- Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi chấm dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp hơn giá trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua lại tài sản thuê.

III. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG CTCP

1. Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu

          Tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn còn một số hạn chế như sau:
Theo khoản 1 Điều 85 LDN 2005 quy định một trong những nội dung chủ yếu mà cổ phiếu phải có là "mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu", nghĩa là cổ phiếu phải có mệnh giá. Mệnh giá là cách thức góp vốn, là cơ sở cho chủ nợ nhìn vào để đòi nợ và chỉ có ý nghĩa khi CTCP phát hành cổ phiếu lần đầu. Cổ phiếu khi được bán trên thị trường có thể có giá cao hơn hay thấp hơn mệnh giá, vậy là có sự tách biệt giữa mệnh giá và giá thị trường nhưng tính chất bình đẳng của việc góp vốn vẫn được duy trì, bởi giữa những người mua với nhau không có gì khác biệt. Vì vậy, việc định giá cho cổ phiếu có lẽ là không cần thiết.
Ngoài ra, có thể đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi tạo sự hấp dẫn với người đầu tư như ở một số nước đặc biệt là các nước trong khu vực ASEAN đã áp dụng: cổ phần ưu đãi dồn lãi, cổ phần ưu đãi dự phần được chia cổ tức, cổ phần ưu đãi mua lại, cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi, cổ phần ưu đãi phức hợp, cổ phần ưu đãi hàng đầu, cổ phần ưu đãi để trống...
Hiện nay, các loại trái phiếuvẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư. Khoản 1 Điều 88 nên có quy định cụ thể về các “loại trái phiếu khác” là những loại trái phiếu nào để các CTCP áp dụng phát hành nhằm mở rộng thị trường đầu tư. Một số loại trái phiếu khác có thể là: trái phiếu không trả lãi, trái phiếu trả lãi theo thu nhập, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu có quyền bán trước khi đáo hạn...

2.Huy động vốn bằng hình thức tín dụng, thuê tài chính

Vay vốn ngân hàng là hình thức được các doanh nghiệp áp dụng phổ biến.Tuy nhiên, hiện nay pháp luật chưa có quy định rõ ràng, thủ tục cho vay còn phức tạp, lãi suất vay thường rất cao, chỉ được vay ngắn hạn (12 tháng) nên doanh nghiệp phải chịu áp lực trả lãi và thời hạn trả.
Riêng đối với hình thức thuê tài chính thì thực tế hiện nay cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy “mặn mà”.Sở dĩ hình thức này ít được quan tâm vìhiểu biết của doanh nghiệp còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu; giá cho thuê còn cao.So với vay tín dụng ngân hang thì lãi suất thuê tài chính cao hơn, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm...của bên cho thuê phải bỏ ra.

IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN TRONG CTCP

- LDN và các văn bản liên quan cần có những sửa đổi, bổ sung cụ thể các quy định về phát hành cổ phiếu và trái phiếu.
- Có biện pháp quảng bá, giới thiệu về dịch vụ thuê tài chính để các các CTCP có hiểu biết về loại hình này, mạnh dạn lựa chọn trong giải pháp huy động vốn.
- Các CTCP cần quan tâm đến khả năng tài chính; doanh thu và lợi nhuận kinh doanh. Khi có tiềm lực về kinh tế thì có thể tự do lựa chọn bất kỳ hình thức huy động vốn nào. Trong trường hợp không tự tin về tiềm lực của công ty thì nên thận trọng trong việc lựa chọn hình thức huy động vốn để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh rủi ro.
          - Những quy định về vốn và huy động vốn của CTCP chứa đựng trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Luật doanh nghiệp. Ngoài ra còn có các luật chuyên ngành, các văn bản pháp luật có liên quan.Chính vì vậy, khi áp dụng cần tránh tình trạng chồng chéo, không thống nhất.
          Vốn là một trong những nhân tố cần thiết đối với sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh thì việc huy động vốn là rất quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
          Các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng có nhiều cách thức để huy động vốn, tuy nhiên việc lựa chọn cách thức phù hợp đồng thời vẫn giữ được sự ổn định trong cơ cấu tổ chức lại phụ thuộc vào tình hình thực tế của mỗi công ty. Thực tế cho thấy hiện nay các CTCP chủ yếu lựa chọn hai hình thức chính là phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Ngoài ra còn một số hình thức khác như vay tín dụng, thuê tài chính.Với sự ra đời và ngày càng hoàn thiện của Luật doanh nghiệp, pháp luật về CTCP, trong đó có các quy định về vấn đề huy động vốn đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các CTCP có ưu thế vượt trội hơn hẳn các loại hình công ty khác trong việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, phát triển công ty mình theo hướng bền vững./.








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét