Để thành lập một doanh nghiệp và tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản
ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, hiện
nay, khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì quy luật cạnh tranh
cũng trở nên gay gắt. Các doanh nghiệp mọc lên như nấm và đều mong muốn có chỗ
đứng trên thị trường. Chính vì vậy, việc huy động vốn nhằm mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, đa dạng hóa dịch vụ để tăng cường khả năng cạnh tranh được các
doanh nghiệp quan tâm.
Trong các loại hình doanh nghiệp thì CTCP
có ưu thế hơn hẳn về phương thức huy động vốn. Thông qua hình thức phát hành chứng
khoán ra công chúng chỉ trong một thời gian ngắn, CTCP đã vượt xa các công ty
khác về khả năng tận dụng các nguồn vốn trong xã hội. Có nhiều phương thức để
CTCP có thể tiến hành huy động vốn.Tuy nhiên, pháp luật về huy động vốn của CTCP
cần phải có những quy định chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư. Vì
vậy, việc tìm hiểu và vận dụng những quy định của pháp luật huy động vốn trong CTCP
vào thực tiễn là hết sức quan trọng. Trong bài tiểu luận này, em xin đi sâu vào
“Tìm
hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần”. Bài viết
còn nhiều thiếu sót, mong được sự góp ý của thầy cô.
Từ phương diện khoa học pháp lý có thể hiểu khái quát: CTCP
là loại hình công ty đối vốn; vốn điều lệ của công ty được chia thành những phần
bằng nhau gọi là cổ phần; người sở hữu cổ phần là cổ đông công ty, chỉ chịu
trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần
mà cổ đông nắm giữ.
Thứ nhất, về thành viên công ty:
CTCP không quy định số cổ đông tối đa mà chỉquy định số cổ đông tối thiểu cần có
để thành lập công ty. LDN 2005 quy định số cổ đông tối thiểu để thành lập công
ty là 3 cổ đông. Con số tối thiểu này tạo điều kiện cho các cá nhân dễ dàng
tham gia vào thành lập và quản lý doanh nghiệp. Mặt khác đây cũng là dấu hiệu
phân biệt CTCP với các loại hình doanh nghiệp còn lại.Thành viên CTCP là cá
nhân, tổ chức góp vốn vào công ty bằng cách mua cổ phần.
Thứ hai, về cấu trúc vốn của CTCP:
Vốn điều lệ của CTCP là số vốn do tất cả các cổ đông góp được ghi vào điều lệ
công ty. Đó là cam kết về trách nhiệm của công ty trước công chúng. Giá trị ban
đầu của mỗi cổ phần là mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và được phản ánh
trong cổ phiếu. Cổ phiếu được thể hiện dưới hình thức tờ cổ phiếu hoặc bút toán
ghi sổ.Việc góp vốn vào công ty được thực hiện thông qua việc mua cổ phần, mỗi
cổ đông có thể mua nhiều cổ phần.
Thứ ba, về chuyển nhượng phần vốn
góp: Các cổ đông của CTCP được tự do chuyển nhượng vốn
góp của mình thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần trừ một số trường hợp đặc
biệt theo luật định. Do đó, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt
mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty.
Thứ tư, về chế độ trách nhiệm tài sản
của công ty: Công ty phải chịu trách nhiệm một cách
độc lập với các nghĩa vụ tài sản và các khoản nợ bằng toàn bộ tài sản của công
ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ khác của công
ty trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty.
Thứ năm, CTCP có quyền phát hành chứng
khoán các loại để huy động vốn: Trong quá trình hoạt động,
CTCP có quyền phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ để huy động vốn. Quy định này khiến cho CTCP có ưu thế hơn hẳn các loại
hình doanh nghiệp khác trong việc thu hút vốn đầu tư từ công chúng cho hoạt động
kinh doanh.
Thứ sáu, CTCP là doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 77 LDN
2005 thì CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Có nghĩa là CTCP tồn tại độc lập với tư cách chủ thể khác về mặt pháp lý
và có tài sản riêng tách bạch với toàn bộ tài sản của các cổ đông; tự mình tham
gia vào các quan hệ pháp luật bằng chính tư cách của mình chứ không phải nhân danh
bất cứ chủ thể nào khác.Khi nhân danh chính mình, công ty sẽ được hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ phát sinh đến hết giá trị tài sản của công ty.
Thứ bảy, về tổ chức quản lý của
CTCP: Cơ chế quản lý CTCP được pháp luật quy định có phần
phức tạp hơn và chặt chẽ hơn so với các loại hình kinh doanh khác. CTCP có sự
tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý.Bởi vì đây là loại hình công ty có
số lượng cổ đông đông đảo, vấn đề quản trị phức tạp, các cổ đông không quan tâm
tới nhân thân của nhau mà chỉ quan tâm tới phần vốn góp mà họ nắm giữ.Tuy nhiên
trong thực tế, quyền lực cao nhất vẫn thuộc về đại hội đồng cổ đông - những người
chủ sở hữu công ty thông qua việc biểu quyết các vấn đề quan trọng.
Trong
khoa học pháp lý hiện nay có khá nhiều quan điểm khác nhau về vốn.Trên phương
diện khoa học tài chính, vốn của doanh nghiệp được quan niệm là vốn kinh doanh
và là cơ sở vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp. Là giá trị của toàn bộ tài
sản được đầu tư vào hoạt động của công ty, được công ty sử dụng trong kinh
doanh nhằm mục đích sinh lợi. Xét trên phương diện cấu trúc, vốn của doanh nghiệp
nói chung và của CTCP nói riêng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm
các bộ phận cấu thành có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cấu trúc vốn của
CTCP có thể xem xét từ hai khía cạnh khác nhau là: nguồn hình thành vốn và công
dụng kinh tế của tài sản.
Căn cứ vào công dụng kinh
tế và sự luân chuyển của tài sản, cấu trúc vốn của CTCP được chia thành: vốn cố
định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính. CTCP có quyền quyết định cơ cấu vốn
cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính của công ty phù hợp với tính chất
ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh.
Căn cứ vào nguồn hình
thành vốn có thể chia cấu trúc vốn của CTCP thành: vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần)
và vốn tín dụng (vốn vay).
XEM THÊM:CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1.
Vốn chủ sở hữu của CTCP
Vốn chủ sở
hữu là chỉ số kinh tế phản ánh khả năng tài chính thực sự của CTCP. Vốn chủ sở
hữu được hình thành từ nguồn đóng góp của các cổ đông khi thành lập công ty và
công ty huy động trong quá trình hoạt động. Bộ phận chủ yếu cấu thành nên vốn
chủ sở hữu là vốn điều lệ.Vốn điều lệ thể hiện những đặc trưng nhất của cấu
trúc vốn CTCP. Là số vốn do tất cả các cổ đông góp và được ghi vào điều lệ công
ty, bắt buộc phải chia thành nhiều phần có giá trị bằng nhau gọi là cổ phần.
Giá trị mỗi cổ phần tùy công ty quyết định.
-
Cổ phần phổ thông: Là loại cổ phần bắt buộc phải có của CTCP. Cổ phiếu phản ánh
cổ phần phổ thông là loại chứng khoán không có kỳ hạn. Nó tồn tại cùng với sự tồn
tại của công ty phát hành ra nó. Cổ phần phổ thông không có mức lãi suất cố định,
lãi suất được chia vào cuối niên độ thanh toán gọi là cổ tức. Số cổ tức được
chia bao nhiêu cho một cổ phần tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của
công ty và do công ty quyết định. Cổ đông phổ thông có quyền tham gia biểu quyết
- quyết định mọi vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của công ty và có
quyền tự do chuyển quyền sở hữu của mình đối với công ty cho người khác thông
qua việc chuyển quyền sở hữu các cổ phần.
- Cổ phần ưu đãi: là cổ phần có tính
chất pháp lý khác biệt so với cổ phần phổ thông. Người chủ sở hữu cổ phần ưu
đãi được hưởng một số quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ
thông và chịu những hạn chế một cách tương xứng. CTCP có thể phát hành những cổ
phần ưu đãi sau:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ
phần có số biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông (số biểu quyết của một
cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định).
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được
trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn
định hàng năm.
+
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất kỳ khi
nào theo yêu cầu của chủ sỡ hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của
cổ phần ưu đãi hoàn lại.
Ngoài ra công ty có thể quyết định
phát hành các loại cổ phần ưu đãi khác như: cổ phần ưu đãi mua lại, cổ phần ưu
đãi có thể chuyển đổi…
Đối với cổ phần phổ thông thì đòi hỏi
CTCP phải phát hành ngay từ khi thành lập công ty, còn cổ phần ưu đãi thì pháp
luật không quy định mà cho phép công ty phát hành tùy vào điều kiện kinh tế cụ
thể của từng công ty. Trong quá trình hoạt động, CTCP có thể phát hành các loại
cổ phần để huy động vốn. Chính vì vậy mà CTCP có thể thiết lập một cơ chế huy động
vốn linh hoạt, đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng khác nhau của nhà đầu
tư.
2.2. Vốn tín dụng (vốn
vay)
Là vốn mà công ty đi vay để đảm bảo hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty và phải hoàn trả cả vốn và lãi khi hết thời
hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc ghi nhận trên một giấy
tờ có giá trị nào đó. Xét trên phương diện tài chính, vốn vay là khoản nợ công
ty và được hạch toán vào tài sản nợ trong quá trình luân chuyển vốn vay trong
công ty. Công ty có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt số tiền vay
trong thời hạn đi vay. Tuy nhiên vốn vay không phản ánh khả năng tài chính thực
sự của công ty. Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không những ở khả năng tài trợ những
nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh mà còn tạo
điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các
khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay.
CTCP có quyền lựa chọn nhiều cách thức
khác nhau để huy động vốn vay, trong đó cách thức quan trọng và thể hiện ưu thế
của CTCP là phát hành trái phiếu.
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA CTCP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
CTCP
có thể lựa chọn nhiều phương thức huy động vốn khác nhau như: phát hành cổ
phiếu, phát hành trái phiếu, vay vốn ngân hàng, vay các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước...Tuy nhiên trong các phương thức huy động vốn nói trên thì phát
hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu là hai phương thức phản ánh được nét đặc
trưng trong cơ cấu vốn của CTCP, đồng thời thể hiện được thế mạnh về khả năng
huy động vốn của CTCP so với các loại hình doanh nghiệp khác. Vì vậy, LDN 2005
cũng như các luật trước đó khi điều chỉnh vấn đề huy động vốn của CTCP chỉ đề
cập đến hai phương thức này.
1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu
Huy
động vốn bằng phát hành cổ phiếu là một quyền năng cơ bản của CTCP. Phương thức
này cho phép huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có được
số vốn lớn và ổn định cho hoạt động của CTCP.Thực chất của phát hành cổ phiếu
chính là việc CTCP chào bán cổ phần để huy động vốn.
Theo
LDN 2005, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP. Cổ phần của CTCP
có thể tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Trong cổ
phần ưu đãi lại bao gồm nhiều loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu
đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ
công ty quy định. Còn cổ phiếu là sự biểu hiện về mặt hình thức của cổ phần. Cổ
phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu
một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Tùy từng loại cổ phiếu mà pháp luật hay
Điều lệ công ty quy định phải ghi tên hay không. Mỗi cổ phiếu có thể xác nhận
một cổ phần hay một số cổ phần, tuy nhiên về cơ bản thì một cổ phiếu gồm những
nội dung sau: Tên, địa chỉ trụ sở chính
của công ty; Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Số lượng cổ
phần và loại cổ phần; Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên
cổ phiếu;Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số giấy chứng minh nhân dân,
Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa
chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh
của cổ đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên; Tóm tắt về thủ tục chuyển
nhượng cổ phần; Chữ ký mẫu của người đại diện theo phép luật và dấu của công
ty; Số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu;
Các nội dung khác theo quy định tại điều 81, 82 và 83 LDN 2005 đối với cổ phiếu
của cổ phần ưu đãi.
CTCP
cần có sự cân nhắc cổ phần của từng loại được quyền chào bán. Bởi trên thực tế việc
phát hành cổ phiếu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông hiện hữu
trong công ty và có thể làm thay đổi cơ cấu tổ chức trong CTCP.
1.1. Phương thức phát hành của cổ phiếu
LDN 2005 quy định hai
phương thức phát hành cổ phiếu đó là: phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát
hành cổ phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên, các nội dung cụ thể của phát hành cổ phiếu
ra công chúng, LDN 2005 không trực tiếp điều chỉnh mà do pháp luật về chứng
khoán, về thị trường chứng khoán điều chỉnh gồm điều kiện, phương thức, thủ tục
chào bán.
a) Phát hành cổ phiếu ra
công chúng
Căn
cứ vào Khoản 12 điều 6 Luật Chứng khoán 2006 về chào bán chứng khoản ra công
chúng thì phát hành cổ phiếu ra công chúng thực hiện theo các phương thức sau
đây:
1. Thông qua phương tiện
thông tin đại chúng
2. Chào bán chứng khoán
cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp.
3. Chào bán cho một số
lượng nhà đầu tư không xác định.
Khi
thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng thì CTCP được gọi là công ty
đại chúng. Do được bán rộng rãi cho tất cả các nhà đầu tư có nhu cầu trong xã
hội nên để bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chưa có kinh
nghiệm nên CTCP khi thực hiện phát cổ phiếu theo phương thức này phải chịu sự
ràng buộc của pháp luật về chứng khoán. CTCP phải thực hiện chế độ báo cáo,
công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ giám sát của pháp luật. Về hình
thức thì phát hành cổ phiếu ra công chúng được pháp luật phân biệt giữa phát
hành cổ phiếu lần đầu và phát hành thêm cổ phiếu bổ sung.
b) Phát hành cổ phiếu
riêng lẻ
Trước
đây, việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ thường để chào bán cho những cổ đông
trong CTCP nhằm huy động thêm vốn điều lệ. Nhưng hiện nay, việc chào bán cổ
phiếu riêng lẻ không chỉ hướng tới các thành viên trong CTCP mà còn mở rộng ra
các nhà đầu tư bên ngoài có nhu cầu. Do đó, để đảm bảo thị trường chứng khoán
phát triển ổn định, sôi nổi và để đưa phương thức này đi vào khuôn khổ có sự
quản lý của pháp luật thì Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy
định về chào bán cổ phần riêng lẻ.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 4 NĐ 01/2010/NĐ-CP có thể hiểu chào
bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp
và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối
tượng sau:
1. Các nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
2. Dưới 100 nhà đầu tư
không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp
Thông
thường các nhà đầu tư chứng khoán này là các khách hàng đặc biệt như các các
công ty bảo hiểm, công ty đầu tư chứng khoán...So với cổ phiếu công chúng thì cổ
phiếu riêng lẻ chỉ bán cho phạm vi các nhà đầu tư được chọn lọc từ trước với số
lượng hạn chế, nhằm huy động thêm một lượng vốn nhỏ hoặc cần tăng vốn điều lệ
mà không muốn thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng (phải cần đến chi phí
phát hành lớn).
1.2. Điều kiện phát hành cổ phiếu
Vì
việc phát hành cổ phiếu có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động của thị trường chứng
khoán và tác động tới cơ cấu tổ chức của CTCP nên LDN 2005 yêu cầu CTCP phát
hành phải đáp ứng được các điều kiện:
Đối với cổ phần phổ
thông, LDN năm 2005 quy định: “Các cổ
đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông
được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong
thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh”. Yêu cầu này đặt ra thường nhằm vào các CTCP mới thành lập và thực
hiện phát hành cổ phiếu lần đầu. Đối với các công ty này, đây là thời điểm công
ty chưa khẳng định được năng lực hoạt động của mình cũng như khả năng tài chính
để bảo đảm an toàn trong các quan hệ với đối tác bên ngoài và với công chúng
đầu tư. Do đó pháp luật phải đưa ra các quy định để gắn chặt quyền lợi và trách
nhiệm của các cổ đông sáng lập với lợi ích của công ty và đề cao trách nhiệm
của họ trong giai đoạn đầu thành lập CTCP đối với công chúng đầu tư.
Giá
chào bán cổ phiếu được LDN 2005 quy định: “Giá
chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc
giá được ghi trong sổ sách của công ty cổ phần tại thời điểm gần nhất”. Giá
chào bán cổ phiếu là giá của cổ phiếu do CTCP tự xác định để công ty thực hiện
bán đấu giá cổ phiếu trên thị trường hoặc để mời các nhà đầu tư mua cổ phiếu
của mình. Còn giá cổ phiếu trên thị trường là giá giao dịch của cổ phiếu trên
thị trường chứng khoán. Giá thị trường của cổ phiếu phản ánh giá trị thực của
cổ phần. Bởi vậy, hiện nay LCK 2006 chỉ quy định mệnh giá cho cổ phiếu chào bán
lần đầu là 10.000 đồng để làm đại lượng xác định vốn điều lệ của CTCP khi thực
hiện phát hành cổ phiếu lần đầu. Việc LDN 2005 đưa ra giá chào bán cổ phần như
trên là để đảm bảo việc chào bán cổ phiếu của CTCP cho các cổ đông được thực
hiện một cách công bằng và hạn chế việc CTCP tạo ra các ưu thế cho các cổ đông
có ưu đãi và những bất lợi cho các cổ đông khác.
Bên
cạnh quy định cứng về giá chào bán cổ phiếu ở trên thì LDN 2005 vẫn đưa ra một
vài ngoại lệ cho CTCP được chào bán cổ phần với giá thấp hơn quy định, đó là các
trường hợp:
1. Cổ phần chào bán lần
đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập
2. Cổ phần chào bán cho
tất cả cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty
3. Cổ phần chào bán cho
người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số chiết khấu hoặc tỷ
lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại diện cho ít
nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
4. Các trường hợp khác
và mức chiết khấu trong các trường hợp đó do Điều lệ công ty quy định.
Ngoài
ra, LDN cho phép nếu cổ đông của công ty không có nhu cầu thực hiện quyền ưu
tiên mua cổ phiếu mới phát hành của công ty thì các cổ đông này được chuyển
quyền ưu tiên mua của mình cho người khác để tạo điều kiện cho CTCP khi phát
hành cổ phiếu riêng lẻ có thể bán hết số cổ phiếu dự định phát hành. Người mua
cổ phiếu phải là những đối tượng đã được công ty xác định từ trước.
a) Phát hành cổ phiếu ra
công chúng
CTCP phải đáp ứng các
điều kiện sau:
Thứ nhất, CTCP muốn chào bán cổ phiếu phải có tiềm lực tài chính, thể hiện
ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán cổ phiếu. Mức vốn điều
lệ mà CTCP phải thỏa mãn là 10 tỉ VNĐ tính theo sổ sách ghi trên sổ kế toán.
Thứ hai, CTCP có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là công ty
kinh doanh có hiệu quả. Điều đó phải được thể hiện cụt hể ở kết quả kinh doanh
của công ty đó vào năm liền trước năm đăng ký chào bán. Kết quả kinh doanh của
CTCP phải được xem xét trên cả hai phương diện: năm liền kề trước đó CTCP phải
có lãi và công ty không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu.
Thứ ba, CTCP dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải có sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đông về phương án phát hành và phương án sử dụng vốn
huy động được từ đợt chào bán. Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo Đại hội
đồng cổ đông của công ty phát hành được quyền quyết định cao nhất đối với định
hướng phát triển của CTCP đã quy định trong LDN 2005.
b) Phát hành cổ phiếu
riêng lẻ
Theo Điều 8 Chương 3 của
NĐ 01/2010/NĐ-CP thì điều kiện để CTCP có thể phát hành cổ phiếu riêng lẻ là:
Thứ nhất, phải là CTCP hoặc các doanh nghiệp chuyển đổi
thành CTCP, ngoại trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành CTCP.
Thứ hai, phát
hành cổ phiếu riêng lẻ không tác động tới sự thay đổi về quyền lợi cổ đông hiện
hữu và cơ cấu tổ chức của CTCP như phát hành ra công chúng. Do đó, ngay trong
quyết định thông qua phương án chào bán và phương án sử dụng số tiền thu được
từ đợt chào bán của đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ thì chỉ cần Hội đồng quản
trị thông qua. Vì số lượng người mua nhất định nên trong phương án chào bán
phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà
đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày
hoàn thành đợt chào bán.
Thứ ba, có hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ đầy
đủ và hợp lệ gửi tới cơquan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày
dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy
định khác.
Thứ tư, các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít
nhất sáu tháng.
Thứ năm, đảm bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn,
hình thức đầu tư, trong trường hợp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài.
1.3. Thủ tục tiến hành
Thủ tục tiến hành phát hành cổ phiếu của CTCP
không được LDN 2005 quy định cụ thể nhưng theo các quy định của pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán thì dù phát hành theo phương thức riêng
lẻ hay ra công chúng thì phải tuân theo ba bước sau đó là: đăng ký chào bán cổ
phiếu, công bố thông tin trước khi phát hành và phân phối chứng khoán.
a) Đăng ký chào bán
cổ phiếu
Để được chào bán cổ
phiếu thì CTCP phát hành phải chuẩn bị hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu gửi tới
UBCKNN. Tùy từng phương thức phát hành mà CTCP phải chuẩn bị hồ sơ theo yều cầu
của LCK 2006 để được cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng.
Nếu là phát hành cổ
phiếu riêng lẻ thì CTCP chuẩn bị bộ hồ sơ theo yêu cầu của Nghị định số
01/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ và chỉ cần được sự
đồng ý của UBCKNN hoặc sau 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn mà pháp luật quy
định thì CTCP được tiến hành chào bán cổ phiếu.
b) Công bố thông tin
trước khi phát hành cổ phiếu
Công bố thông tin là một nghĩa vụ bắt buộc
đối với CTCP khi phát hành cổ phiếu để đảm bảo yêu cầu về tính công khai, minh
bạch của hoạt động này.
* Phát hành cổ phiếu ra
công chúng: CTCP sau khi được cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công
chúng phải công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về đợt
phát hành và cung cấp nội dung của bản cáo bạch có trong hồ sơ đăng ký chào bán
tới công chúng đầu tư. Bản cáo bạch ung cấp cho công chúng đầu tư những thông
tin cần thiết về bản thân CTCP phát hành như: tổ chức bộ máy quản lý, báo cáo
tài chính, năng lực hoạt động và các thông tin khác về đợt chào bán để các nhà
đầu tư có thể đánh giá được rủi ro của cổ phiếu đó mà có quyết định đầu tư đúng
đắn. Hơn nữa khách hàng của phương thức phát hành này bao gồm các nhà đầu tư
chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Do đó nếu không quy định chặt chẽ về việc
công bố thông tin của CTCP phát hành thì sẽ gây bất lợi lớn cho các nhà đầu tư
không chuyên nghiệp vì bản thân họ không có nhiều hiểu biết về tính rủi ro của
từng loại chứng khoán.
* Phát hành cổ phiếu
riêng lẻ: LDN 2005 quy định: “CTCP phải
thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa
chỉ thường trú của họ. Thông báo phải được đăng báo ba số liên tiếp trong thời
hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo”. Quy định này nhằm đảm bảo tính
công khai, công bằng của đợt phát hành vì không phải cổ đông nào trong CTCP
cũng được tham gia vào các cơ quan quản lý của công ty để biết được các quyết
định hay hoạt động cụ thể mà công ty định tiến hành. Nghị định số 01/2010/ND-CP
thì yêu cầu CTCP phát hành cổ phiếu theo phương thức này không được công bố
thông tin có nội dung quảng cáo về đợt phát hành trên các phương tiện thông tin
đại chúng để đảm bảo đúng bản chất của phát hành cổ phiếu riêng lẻ.
c) Phân phối cổ phiếu
Việc phân phối cổ phiếu được LDN 2005 quy
định “Sau khi cổ phần được bán, CTCP phát
hành phải trao cổ phiếu cho người mua.Công ty có thể bán cổ phần mà không trao
cổ phiếu (phát hành cổ phiếu dưới dạng bút toán ghi sổ).Trong trường hợp này,
các thông tin về cổ đông chỉ cần ghi vào sổ đăng ký cổ đông để chứng thực quyền
sở hữu cổ phần của cổ đông đó trong công ty”.
2. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu
Trái phiếu là loại chứng khoán mà CTCP sử
dụng để huy động vốn vay trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
sản xuất, kinh doanh của CTCP
Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được quy
định tại Khoản 1 Điều 88 LDN 2005 như sau: “CTCP
có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu
khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”. Có nghĩa là trong quá
trình hoạt động, CTCP có thể lựa chọn phát hành nhiều loại chứng khoán khác
nhau như: trái phiếu thông thường, trái phiếu chuyển đổi…để huy động vốn vay
cho mình.
Theo Khoản 3 Điều 6 LCK 2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức
phát hành”. Nếu cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu cổ phần trong
CTCP thì trái phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền người sở hữu được trả nợ
gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn. Do đó, người mua trái
phiếu của CTCP không có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty và
cũng không trở thành cổ đông của công ty như việc mua cổ phiếu.
Dù phát hành trái phiếu không làm ảnh hưởng
tới cơ cấu của CTCP và địa vị của các cổ động hiện hữu nhưng nó lại ảnh hưởng
tới sự tồn tại, hoạt động của công ty cũng như trách nhiệm của các cổ đông đối
với khoản nợ của công ty.
2.1. Phương thức phát hành của trái phiếu
Theo LCK 2006, CTCP có quyền phát hành trái
phiếu theo hai phương thức: phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Phát
hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ thì tuân thủ theo quy định của LDN
2005. Còn với phát hành trái phiếu ra công chúng thì luật không phân biệt về
hình thức phát hành lần đầu và phát hành thêm trái phiếu giống như phát hành cổ
phiếu.
2.2. Điều kiện phát hành trái phiếu
a) Phát hành trái phiếu
ra công chúng
Ngoài việc phải thỏa mãn
các điều kiện về vốn điều lệ, kết quả kinh doanh, kế hoạch huy động cũng như sử
dụng vốn huy động, CTCP còn phải đáp ứng thêm các điều kiện khác như: không có
các khoản nợ quá hạn trên 1 năm, phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của công ty
với nhà đầu tư. Phương án phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ cần có sự
thông qua của Hội đồng quản trị thay vì phải được sự chấp thuận của Đại hội
đồng cổ đông như trong phát hành cổ phiếu ra công chúng. Do việc phát hành trái
phiếu ra công chúng không ảnh hưởng tới vị thế của cổ đông hiện hữu mà chỉ ảnh
hưởng tới khả năng tài chính của công ty. Vì vậy, chỉ cần hội đồng quản trị với
tư cách là cơ quan quản lý của công ty thông qua.
b) Phát hành trái phiếu
riêng lẻ
Khoản 2 điều 88 LDN 2005 đã đưa ra các trường
hợp CTCP không được phát hành trái phiếu:
1. Không thanh toán đủ
cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc thanh toán
không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước đó
2. Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến
trả cho trái phiếu định phát hành.
Quy định này được đưa ra để loại bỏ việc tham
gia phát hành trái phiếu của những CTCP không có đủ năng lực trả nợ nhằm ngăn
chặn rủi ro tiềm tàng cho các nhà đầu tư. Vì phát hành trái phiếu là một phương
thức vay nợ có bảo đảm của CTCP nhưng người cho vay lại chỉ được cầm một tờ
chứng chỉ mà không phải là tài sản bảo đảm. Do đó, nếu CTCP mất khả năng trả nợ
thì người mua trái phiếu của CTCP sẽ gặp khó khăn như những người đi vay tài
sản không có bảo đảm khác.
Dưới
góc độ của một hoạt động phát hành chứng khoán và hoạt động vay vốn thì việc
phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Đáp ứng yêu cầu về thời hạn hoạt động kinh
doanh tối thiểu.Thông thường là ít nhất 1 năm để có thể chứng minh được thực
lực của CTCP trong thời gian đã qua và khẳng định tiềm lực của CTCP trong thời
gian sắp tới.
- Phải có báo cáo tài chính của năm liền kề
trước năm phát hành được kiểm toán để đáp ứng yêu cầu về tài chính minh bạch.
- Kinh doanh có lãi ở năm liền kề trước năm
phát hành.
- Có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ
đã được Hội đồng quản trị công ty thông qua.
2.3. Thủ tục tiến hành
a) Phát hành trái phiếu
ra công chúng: gồm 3 bước là đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, công bố
thông tin trước khi chào bán và phân phối chứng khoán. Đối với hồ sơ đăng ký
chào bán trái phiếu chỉ cần có quyết định của Hội đồng quản trị. Và phải có
thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP phát hành đối với nhà đầu tư về
điều kiện phát hành, tham toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư và các điều kiện khác.
b) Phát hành trái phiếu
riêng lẻ
LDN không quy định.Song với bản chất phát
hành trái phiếu riêng lẻ là phát hành trái phiếu để vay vốn của những nhà đầu
tư định trước nên nó khá giống với hoạt động vay thông thường. Bao gồm 2 bước:
công bố thông tin trước khi chào bán và phân phối trái phiếu
- Công bố thông tin
trước khi phát hành: nhằm đảm bảo hoạt động phát hành công khai, minh bạch,
công bằng và bảo vệ quyền cũng như lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Bao
gồm: công khai báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm phát hành
làm cơ sở cho nhà đầu tư; công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết
của mình đối với người sở hữu trái phiếu.
- Phân phối trái phiếu:
thông qua công ty hoặc tổ chức trung gian. Thông thường việc phân phối trái
phiếu riêng lẻ được thực hiện theo phương thức đầu thấu. Việc đấu thầu trái
phiếu có thể được tiến hành trực tiếp tại công ty hoặc thông qua tổ chức trung
gian hoặc qua trung tâm giao dịch chứng khoán
Ngoài
2 phương thức huy động vốn nêu trên CTCP còn có thể huy động vốn thông qua các
hình thức tín dụng.
Để
huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng được
các điều kiện: có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả
thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được
bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với
ngân hàng. Ngoài ra, công ty có thể được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản.
Có
hai hình thức cho vay vốn là vay có bản đảm và vay không có bảo đảm.
-
Vay có bảo đảm là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả
nợ của CTCP được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản
hình thành từ vốn vay của công ty hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của công ty, tài sản hình thành từ vốn vay
và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với tổ
chức tín dụng.
+
Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP dùng tài sản (bất động sản thuộc
sở hữu của mình) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.
+
Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là việc CTCP có nghĩa vụ giao tài sản (động sản
thuộc sở hữu của mình) cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+
Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay
cho CTCP nếu khi đến hạn trả nợ mà công ty không trả số nợ nợ vay cho ngân
hàng.
Khi
vay vốn có các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trên, công ty và ngân hàng phải lập
hợp đồng bảo đảm. Hợp đồng bảo đảm có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc
chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
-
Vay
không có bảo đảm bằng tài sản: CTCP cũng có thể được ngân hàng lựa chọn cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản khi cho vay
vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất khi
đáp ứng đủ các yêu cầu quy định của pháp luật.
Trên
thực tế nhiều doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng khó tiếp cận vốn vay
ngân hàng. Cho nên xuất hiện các công ty cho
thuê tài chính như một giải pháp để tài trợ vốn trung hạn và dài hạn cho
các doanh nghiệp.Cho
thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.Tổ
chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng một tài sản cụ thể để bên thuê sử dụng
trong một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo
thoả thuận. Hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu được chuyển giao cho bên
thuê.
Có
nhiều cách phân loại cho thuê tài chính. Tuy nhiên, để làm nổi bật bản chất tín
dụng, hoạt động cho thuê tài chính có thể được phân loại như sau:
-
Cho thuê tài chính không hoàn lại tài sản thuê: là phương thức cho thuê tài
chính mà theo đó, bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê khi chấm dứt hợp đồng
thuê. Khi
kết thúc hợp đồng, bên cho thuê có nghĩa vụ tiến hành các thủ tục pháp lý cần
thiết để chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê. Đối với phương thức này, số tiền
thuê thường không thấp hơn giá trị tài sản thuê tại thời điểm giao kết hợp đồng
và khi
chuyển giao quyền sở hữu, bên thuê chỉ phải thanh toán theo
giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực của tài sản tại thời điểm chuyển giao
-
Cho thuê tài chính có hoàn lại tài sản thuê là phương thức cho thuê tài sản mà theo
đó, tài sản thuê không đương nhiên được chuyển giao quyền sở hữu khi
chấm dứt hợp đồng thuê. Với phương thức cho thuê này, số tiền thuê có thể thấp
hơn giá trị của tài sản tại thời điểm thuê. Khi
kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê có quyền thuê tiếp hoặc mua
lại tài sản thuê.
III.
ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG CTCP
1.
Huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu
Tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn còn một số
hạn chế như sau:
Theo
khoản 1 Điều 85 LDN 2005 quy định một trong những nội dung chủ yếu mà cổ phiếu
phải có là "mệnh giá mỗi cổ phần và
tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu", nghĩa là cổ phiếu phải có
mệnh giá. Mệnh giá là cách thức góp vốn, là cơ sở cho chủ nợ nhìn vào để đòi nợ
và chỉ có ý nghĩa khi
CTCP phát hành cổ phiếu lần đầu. Cổ phiếu khi
được bán trên thị trường có thể có giá cao hơn hay thấp hơn mệnh giá, vậy là có
sự tách biệt giữa mệnh giá và giá thị trường nhưng tính chất bình đẳng của việc
góp vốn vẫn được duy trì, bởi giữa những người mua với nhau không có gì khác biệt.
Vì vậy, việc định giá cho cổ phiếu có lẽ là không cần thiết.
Ngoài
ra, có thể đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi tạo sự hấp dẫn với người đầu tư
như ở một số nước đặc biệt là các nước trong khu vực ASEAN đã áp dụng: cổ phần
ưu đãi dồn lãi, cổ phần ưu đãi dự phần được chia cổ tức, cổ phần ưu đãi mua
lại, cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi, cổ phần ưu đãi phức hợp, cổ phần ưu đãi
hàng đầu, cổ phần ưu đãi để trống...
Hiện
nay, các loại trái phiếuvẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư. Khoản 1 Điều
88 nên có quy định cụ thể về các “loại trái phiếu khác” là những loại trái phiếu
nào để các CTCP áp dụng phát hành nhằm mở rộng thị trường đầu tư. Một số loại
trái phiếu khác có thể là: trái phiếu không trả lãi, trái phiếu trả lãi theo
thu nhập, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái phiếu có quyền bán trước khi
đáo hạn...
2.Huy
động vốn bằng hình thức tín dụng, thuê tài chính
Vay
vốn ngân hàng là hình thức được các doanh nghiệp áp dụng phổ biến.Tuy nhiên, hiện
nay pháp luật chưa có quy định rõ ràng, thủ tục cho vay còn phức tạp, lãi suất
vay thường rất cao, chỉ được vay ngắn hạn (12 tháng) nên doanh nghiệp phải chịu
áp lực trả lãi và thời hạn trả.
Riêng
đối với hình thức thuê tài chính thì thực tế hiện nay cho thấy các doanh nghiệp
Việt Nam không mấy “mặn mà”.Sở dĩ hình thức này ít được quan tâm vìhiểu biết của
doanh nghiệp còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh
nghiệp còn yếu; giá cho thuê còn cao.So với vay tín dụng ngân hang thì lãi suất
thuê tài chính cao hơn, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các
chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm...của bên cho thuê phải bỏ ra.
IV.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN TRONG CTCP
- LDN và các văn bản
liên quan cần có những sửa đổi, bổ sung cụ thể các quy định về phát hành cổ phiếu
và trái phiếu.
- Có biện pháp quảng
bá, giới thiệu về dịch vụ thuê tài chính để các các CTCP có hiểu biết về loại
hình này, mạnh dạn lựa chọn trong giải pháp huy động vốn.
- Các CTCP cần quan tâm
đến khả năng tài chính; doanh thu và lợi nhuận kinh doanh. Khi có tiềm lực về
kinh tế thì có thể tự do lựa chọn bất kỳ hình thức huy động vốn nào. Trong trường
hợp không tự tin về tiềm lực của công ty thì nên thận trọng trong việc lựa chọn
hình thức huy động vốn để phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh rủi
ro.
-
Những quy định về vốn và huy động vốn của CTCP chứa đựng trong văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất là Luật doanh nghiệp. Ngoài ra còn có các luật chuyên
ngành, các văn bản pháp luật có liên quan.Chính vì vậy, khi áp dụng cần tránh
tình trạng chồng chéo, không thống nhất.
Vốn là một trong những nhân tố cần thiết
đối với sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển
và mở rộng quy mô kinh doanh thì việc huy động vốn là rất quan trọng, nhằm đáp ứng
nhu cầu sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói
riêng có nhiều cách thức để huy động vốn, tuy nhiên việc lựa chọn cách thức phù
hợp đồng thời vẫn giữ được sự ổn định trong cơ cấu tổ chức lại phụ thuộc vào
tình hình thực tế của mỗi công ty. Thực tế cho thấy hiện nay các CTCP chủ yếu lựa
chọn hai hình thức chính là phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Ngoài ra còn một
số hình thức khác như vay tín dụng, thuê tài chính.Với sự ra đời và ngày càng
hoàn thiện của Luật doanh nghiệp, pháp luật về CTCP, trong đó có các quy định về
vấn đề huy động vốn đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các CTCP có ưu thế vượt
trội hơn hẳn các loại hình công ty khác trong việc mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh, phát triển công ty mình theo hướng bền vững./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét