I. MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, người phụ nữ (dù có chồng hay không có chồng) mà
sinh con đã là cơ sở làm phát sinh mối quan hệ giữa mẹ - con, cha - con. Nhà nước bằng pháp luật quy định nguyên tắc
suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con. Vì đó là cơ sở nhằm xác thực mối quan hệ
mẹ - con, cha – con, từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và
tài sản trong quan hệ mẹ - con, cha - con đồng thời là cơ sở pháp lý để Tòa án
giải quyết các tranh chấp về việc xác định cha, mẹ và con trong thực tế, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con. Tuy nhiên việc xác định cha, mẹ,
con trong thực tế lại không phải là vấn đề đơn giản. Được sự phân công của tổ bộ
môn, sau đây em xin được nghiên cứu đề tài: “Các trường hợp được xác định là
con chung của vợ chồng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”
để phần nào làm rõ hơn vấn đề này.
II. NỘI DUNG
1.Trường hợp con sinh ra là con trong giá thú.
a. Nguyên tắc suy
đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con trong giá thú
Con
trong giá thú là con mà cha mẹ là vợ chồng trước pháp luật.
Luật
hôn nhân và gia đình năm 1959 của Nhà nước ta chưa dự liệu về nội dung nguyên tắc
suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ cho con trong giá thú cũng như con ngoài giá
thú. Thông thường khi nam nữ kết hôn với nhau, trở thành vợ chồng, trong thời kỳ
hôn nhân mà người vợ sinh con thì con đó mặc nhiên được coi là con chung của
hai vợ chồng. Hệ thống pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình ở nước ta dưới
chế độ cũ đã dựa hẳn vào quy định của Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp (Điều 311,
Điều 312) để quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ cho con, với
nội dung: “Đứa trẻ thành thai trong thời
kỳ giá thú có cha là chồng người mẹ. Được coi là thụ thai trong thời kỳ giá thú
trẻ nào sinh quá 180 ngày kể từ khi kết hôn hoặc không quá 300 ngày sau khi hôn
thú đoạn tiêu”. Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 của Nhà nước ta đã xác định nội dung nguyên tắc suy đoán
pháp lý xác định cha, mẹ cho con khác với pháp luật dưới chế độ cũ. Ngày nay
nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu trước khi kết hôn. Có nhiều trường hợp
hai bên nam nữ đã có quan hệ sinh lý với nhau, hoặc người phụ nữ đã thụ thai
trước khi kết hôn; sau khi kết hôn với nhau được một thời gian ngắn, người vợ
đã sinh con. Vì vậy, Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định
trên nguyên tắc:
“1. Con sinh ra
trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của
vợ chồng.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được
cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường
hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định
Việc xác định
cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định”.
Theo
quy định trên, thời kì hôn nhân là khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại,
được tính từ khi hai người kết hôn đến khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật. Nếu
người vợ sinh con trong thời kì hôn nhân này, về nguyên tắc, con đó được xác định
là con chung của vợ chồng, tức là người chồng của mẹ đứa trẻ được xác định là
cha của đứa trẻ đó. Cũng theo khoản 1 Điều 63, được coi là “người vợ có thai
trong thời kỳ hôn nhân” là kể từ khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật, nếu
trong hạn 300 ngày (người vợ chưa kết hôn với người khác) mà sinh con thì con
đó cũng được xác định là con chung của vợ chồng.
Theo nguyên tắc suy đoán pháp lí này, mỗi khi sinh
con người phụ nữ không cần phải chứng minh chồng mình là cha của đứa trẻ do
mình sinh ra, cũng như không được ngăn cản chồng mình thực hiện quyền là cha của
đứa trẻ do mình sinh ra. Người chồng đương nhiên được xác định là cha của đứa
trẻ đó và được thực hiện quyền làm cha của mình. Pháp luật đã căn cứ vào thời
kì hôn nhân của vợ chồng để suy đoán mối quan hệ cha mẹ và con. Khi nam nữ trở
thành vợ chồng của nhau đều xuất phát từ yếu tố tình cảm; giữa họ phát sinh những
quyền và nghĩa vụ pháp lí theo luật định như nghĩa vụ chung thuỷ, thương yêu
quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau… Mặt khác, do tác động của nhiều yếu tố
khác như điều kiện kinh tế, xã hội… có ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về tình yêu
và hôn nhân gia đình nên không ít trường hợp người vợ có thai trước thời kì hôn
nhân hoặc thậm chí sinh con trước thời kì hôn nhân thì đa số là do vợ chồng đã
có quan hệ sinh lí trước thời kì hôn nhân nên pháp luật vẫn suy đoán là con chung
của vợ chồng. Điều này đảm bảo quyền lợi không chỉ của đứa trẻ mà còn bảo vệ
quyền của người vợ, người mẹ trong gia đình. Ngay cả trong trường hợp sau khi
quan hệ hôn nhân đã chấm dứt mà người vợ sinh con trong một thời gian luật định
(trong vòng 300 ngày kể từ khi chấm dứt quan hệ hôn nhân) thì pháp luật vẫn xác
định là con chung của vợ chồng. Điều đó đảm bảo ổn định quan hệ cha mẹ và con đồng
thời giúp cho người phụ nữ yên tâm thực hiện thiên chức của mình.
Trên
thực tế có một số trường hợp người chồng nghi ngờ người vợ không chung thủy, đã
có hành vi thông gian, ngoại tình với người khác,… nên sau khi người vợ sinh đứa
trẻ ra thì người chồng không nhận đứa trẻ đó là con của mình. Để đảm bảo quyền
và lợi ích cho đứa trẻ cũng như người mẹ, trong trường hợp này luật đã quy định
rõ, nếu cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ xác thực và phải được
Tòa án công nhận (khoản 2 Điều 63).
Về nguyên tắc, người chồng khi không thừa nhận đứa trẻ là con của mình thì phải
có nghĩa vụ chứng minh được điều đó. Việc chứng minh của người chồng có thể dựa
trên sự thừa nhận tự nguyện của người vợ là đã có thai với người khác, hoặc người
chồng chứng minh được đã đi công tác trong thời gian người vợ có khả năng thụ
thai đứa con đó (theo Nghị quyết số
01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao),
hoặc có thể trưng cầu giám định gen. Nếu người chồng chỉ vì nghi ngờ không chứng
minh được thì Tòa án vẫn buộc người đó phải nhận đứa trẻ do người vợ sinh ra là
con chung của vợ chồng. Ngược lại, nếu người vợ không thừa nhận đứa trẻ là con
của mình thì cũng phải đưa ra những bằng chứng xác thực để chứng minh.
=> Như vậy, dựa
vào các căn cứ trên, con chung của vợ chồng được xác định trong các trường hợp
sau:
- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được
cha mẹ thừa nhận. Tức là khi con sinh ra, cha mẹ của đứa con đó chưa chính thức
trở thành vợ chồng trước pháp luật nên đứa trẻ không thể được coi là con trong
giá thú được, nhưng sau khi cha mẹ kết hôn và thừa nhận đứa con đó thì đứa con
sẽ trở thành con trong giá thú. Luật Hôn nhân và gia đình quy định điều này là
để phù hợp với sự phát triển của xã hội ngày nay. Chúng ta biết rằng xã hội
ngày nay có rất nhiều đôi nam nữ có quan hệ sinh lý trước khi kết hôn thậm chí
là có con trước khi kết hôn. Đồng thời cũng là để đảm bảo quyền lợi của những đứa
trẻ được sinh ra trước ngày cha mẹ chúng trở thành vợ chồng hợp pháp.
- Con được thụ thai trước ngày đăng kí kết hôn và được
sinh ra trong thời kì hôn nhân: Do pháp luật chỉ quy định con sinh ra trong thời
kì hôn nhân là con chung của vợ chồng mà không nói rõ thời gian mang thai bắt đầu
từ ngày nào, do đó ở bất kể thời điểm nào trong thời kì hôn nhân người vợ sinh
con thì đứa trẻ đó là con chung của vợ chồng.
- Con được thụ thai và sinh ra trong thời kì hôn
nhân. Theo quy định trên đây, thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian quan hệ vợ
chồng tồn tại, được tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt trước
pháp luật (do người chồng chết hoặc vợ chồng ly hôn, tính từ khi phán quyết ly
hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật). Nếu người vợ sinh con trong thời kỳ hôn
nhân này, về nguyên tắc, con đó được xác định là con chung của hai vợ chồng. Tức
là người chồng của mẹ đứa trẻ được xác định là cha của đứa trẻ đó.
- Con được thụ thai trong thời kì hôn nhân và sinh
ra sau khi hôn nhân chấm dứt. Trong trường hợp này, việc xác định thời điểm thụ
thai đứa trẻ so với thời điểm hôn nhân chấm dứt là rất cần thiết. Nếu đứa trẻ
được sinh ra trong vòng 300 ngày sau đó thì theo quy định của pháp luật, đứa trẻ
mặc nhiên được xác định là con do người vợ có thai với người chồng khi còn sống
hoặc khi vợ chồng chưa ly hôn. Tuy nhiên theo tinh thần của Điều 63 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000, thực tế cho thấy rằng, trường hợp quan hệ hôn nhân
chấm dứt trước pháp luật (từ ngày người chồng chết hoặc phán quyết ly hôn của
Tòa án có hiệu lực pháp luật), người vợ không đợi sau 300 ngày đã kết hôn ngay
với người khác; nếu sau này người vợ sinh con thì con đó được xác định là “con
chung của vợ chồng”, tức là con của người chồng lấy sau (theo nguyên tắc suy
đoán “con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng”)
b. Một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật vấn đề này.
- Theo tinh thần khoản 1 Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, được coi là “người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân”
là kể từ khi hôn nhân chấm dứt trước pháp luật, nếu trong hạn 300 ngày (người vợ
chưa kết hôn với người khác) mà sinh con thì con đó cũng được xác định là con
chung của vợ chồng (điều này được quy định cụ thể ở Nghị định 70/2002 NĐ - CP).
Trên thực tế thì rất ít (hầu như không có) đứa trẻ nào sau 300 ngày (tức là
khoàng 10 tháng) mới được sinh ra. Y học ngày nay rất phát triển, có những đứa
trẻ chỉ khoảng 6 tháng đã được sinh ra và vẫn có khả năng nuôi được, thế nên
khoảng thời gian 300 ngày theo thực tế hiện nay là không hợp lý nữa, việc quy định
khoảng thời gian 300 ngày vô hình chung “tạo điều kiện thuận lợi” để người vợ
mang thai với người đàn ông khác chứ không phải chồng mình. Theo ý kiến của em,
các nhà làm luật nên sửa lại khoảng thời gian đứa trẻ được sinh ra từ khi hôn
nhân của người vợ và người chồng chấm dứt, thay vì quy định 300 ngày, nên giảm
xuống là 200-250 ngày.
- Trong trường hợp người chồng không thừa nhận đứa
trẻ do vợ mình sinh ra là con của mình thì có Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành còn trường hợp người vợ muốn phủ nhận
đứa trẻ là con mình thì chưa có văn bản nào cụ thể hướng dẫn thi hành. Thực tế
có một số trường hợp các bác sỹ, y tá do vô ý hoặc cố ý nên xác định nhầm đứa
trẻ do người mẹ sinh ra, trường hợp này tuy không gặp nhiều nhưng không phải là
không có. Theo em nhà làm luật nên quy định cụ thể hơn về vấn đề này.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
2. Trường hợp con sinh ra là con ngoài giá thú.
a. Nguyên tắc
suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con ngoài giá thú
Con
ngoài giá thú là con mà cha mẹ không phải là vợ chồng hợp pháp; hoặc tuy cha mẹ
ăn ở, chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không được pháp luật thừa nhận là
vợ chồng. Bao gồm một số trường hợp sau:
- Người mẹ không có chồng mà sinh con;
- Người mẹ có chồng nhưng ngoại tình, có con với người
khác;
- Hai bên nam nữa chung sống với nhau như vợ chồng,
trong thời gian sống chung giữa hai người có con chung với nhau nhưng cha mẹ của
đứa trẻ không đăng ký kết hôn (kể cả trường hợp hai vợ chồng đã ly hôn, phán
quyết ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực sau đó họ lại tái hợp cùng sông với nhau
nhưng không đi đăng ký kết hôn lại. Trường hợp người mẹ sinh con trong thời
gian này thì đứa con đó là con chung ngoài giá thú)
Vấn
đề xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú trong thực tiễn rất phức tạp, vì giữa
cha, mẹ của người con không có hôn nhân hợp pháp thì không thẻ suy đoán theo
nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 63
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đối với trường hợp yêu cầu Tòa án xác định
cha cho con ngoài giá thú, có thể dựa vào những căn cứ sau:
- Trong thời gian người mẹ có thể thụ thai đứa trẻ,
người đàn ông này với mẹ đứa trẻ chung sống với nhau như vợ chồng (chung sống
công khai).
- Trong thời gian người mẹ có thể thụ thai đứa trẻ,
người đàn ông này với mẹ đứa trẻ yêu thương nhau hoặc định kết hôn với nhau.
- Trong thời gian người mẹ có thể thụ thai đứa trẻ
đã bị người đàn ông này cưỡng dâm hoặc hiếp dâm.
- Có thư từ hoặc giấy tờ do người đàn ông này viết
hoặc xác nhận đứa trẻ là con của họ.
- Khi đứa trẻ được sinh ra người đàn ông này chăm
sóc yêu thương đứa trẻ như con mình.
Với
các căn cứ trên có thể thấy luật hiện nay chủ yếu chỉ dựa vào thời gian người
phụ nữ có thể thụ thai, người phụ nữ đó có quan hệ với người đàn ông bị nghi vấn
là cha đứa trẻ hay không. Tất cả những căn cứ trên đều chỉ mang tính chất suy
đoán. Có thể thấy chỉ có căn cứ đầu tiên người đàn ông chung sống với mẹ đứa trẻ
như vợ chồng một cách công khai là căn cứ mức có suy đoán đúng nhất, những căn
cứ còn lại suy đoán đều không có tính xác thực. Căn cứ thứ hai, trong thời gian
người mẹ có thể thụ thai đứa trẻ, người đàn ông này với mẹ đứa trẻ yêu thương
nhau hoặc định kết hôn với nhau và căn cứ thứ ba, trong thời gian người mẹ có
thể thụ thai đứa trẻ đã bị người đàn ông này cưỡng dâm hoặc hiếp dâm đều không
có tính chính xác cao. Thực tế cho thấy rằng rất nhiều người phụ nữ yêu một người
hoặc đến vài người nhưng trong số họ chưa chắc là người đã kết hôn với người phụ
nữ đó, hoặc có những người phụ nữ có số phận không may mắn làm “tiếp viên”
trong các quán bar, vì vậy nếu cứ quy trách nhiệm cho những người đàn ông này
có thể thấy các thì căn cứ trên không còn chính xác cao như căn cứ đầu tiên nữa.
Tiếp đến căn cứ thứ tư, có thư từ hoặc giấy tờ do người đàn ông này viết hoặc
xác nhận đứa trẻ là con của họ. Xã hội hiện nay khoa học kỹ thuật và công nghệ
thông tin ngày càng phát triển, vậy nên trường hợp viết thư tình cảm với nhau
là chuyện rất hiếm hoi, thường là không còn nữa. Do tính chất không hợp với xã
hội hiện đại bây giờ nên căn cứ này không còn phù hợp nữa. Căn cứ thứ năm, khi
đứa trẻ được sinh ra người đàn ông này chăm sóc yêu thương đứa trẻ như con mình..
Xã hội ngày nay cũng không thiếu gì người tốt, những người có tấm lòng hảo tâm
hay chỉ là bạn vè với nhau cũng có thể quan tâm, giúp đỡ nhau trong lúc khó
khăn. Vậy nên, nếu cứ coi người đàn ông chăm sóc yêu thương đứa trẻ như con
mình chính là cha đứa trẻ thì thực sự có rất nhiều và căn cứ này cũng không có
tính chất đúng đắn cao như căn cứ đầu tiên.
=> Như vậy, dựa
vào các căn cứ trên, con chung của vợ chồng được xác định trong các trường hợp
sau:
- Thứ nhất, con được thụ thai do cha, mẹ chung sống
với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn. Khái niệm chung sống như vợ chồng
trong trường hợp này cần phải hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm cả trường hợp
hai bên nam nữ chỉ quan hệ sinh lý với nhau trong khoảng thời gian có thể thụ
thai đứa con. Quan hệ này có thể là công khai hoặc lén lút và kết quả là đứa trẻ
đó ra đời từ quan hệ đó. Khi có đủ căn cứ trên, về nguyên tắc hai bên nam nữ được
xác định là cha mẹ của đứa con đó.
- Thứ hai, con được sinh ra do người mẹ không có chồng:
Việc xác định cha đứa con này được dựa vào căn cứ: trong thời gian có thể thụ
thai đứa con, người mẹ của đứa con đã ngoại tình với ai, có quan hệ sinh lý với
ai hoặc người mẹ này đã bị hiếp dâm, cưỡng dâm để xác định người đàn ông đó là
cha của đứa con này.
- Thứ ba, con được thụ thai hoặc sinh ra khi cha mẹ
kết hôn trái pháp luật và tòa án đã hủy việc kết hôn đó: Đối với trường hợp
này, bởi vì việc kết hôn bị hủy nên coi như cha mẹ của đứa con chưa từng kết
hôn, chưa từng tồn tại thời kỳ hôn nhân. Quan hệ giữa cha mẹ đứa trẻ coi như được
chung sống với nhau như vợ chồng.
Thực
tế giải quyết các tranh chấp về xác định cha, mẹ và con ngoài giá thú rất phức
tạp, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Người thẩm phán giải quyết vụ việc đòi hỏi
phải là người có trình độ pháp luật, vốn sống, kinh nghiệm thực tế, am hiểu và
nắm được các đặc tính về tâm lý của đương sự. Đồng thời trong quá trình điều
tra, thu thập chứng cứ, cần kết hợp với các biện pháp khác như giám định y học:
thử máu, khả năng sinh lý và đặc biệt là giám định về gen khi có yêu cầu… Tòa
án cần đánh giá tổng hợp các chứng cứ để có quyết định chính xác, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Quá trình điều tra để giải quyết vụ kiện,
tòa án cũng có thế điều tra thông qua dư luận xã hội, bạn bè, gia đình hai bên
đương sự cho biết về mối quan hệ tình cảm yêu đương giữa người mẹ đứa trẻ với
người đàn ông được khai là cha của đứa trẻ đó, hoặc dựa vào hoàn cảnh của cha mẹ
trong thời kỳ người con trưởng thành hay qua lời ngụy biện của đương sự tại tòa
án (có trường hợp trước khi chết, hoặc khi người con đã trưởng thành, người mẹ,
người cha hoặc cả hai người mới thừa nhận người con đó là con của mình; hoặc đương
sự lập luận quanh co, có nhiều mâu thuẫn trong lời khai khi bị chất vấn…).
b. Một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật vấn đề này
Với
các căn cứ nêu trên cho thấy, em thấy rằng hiện nay luật chủ yếu chỉ căn cứ vào
thời gian người phụ nữ có thể thụ thai, người phụ nữ đó có quan hệ với người
đàn ông bị nghi vấn là cha của đứa trẻ hay không. Thêm vào đó, một số căn cứ mà
văn bản dưới luật đưa ra cũng không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện
nay nữa. Cũng chính vì vậy mà việc xác định con ngoài giá thú gây khó khăn rất
nhiều cho các thẩm phán khi đưa ra phán quyết bơi không phải người nào cũng có
điều kiện và thời gian để đi giám định AND. Dù rằng chỉ mang ý nghĩa tương đối
nhưng trong LHNGĐ sửa đổi cần quy định những bằng chứng này. Ngoài ra, có thể
quy định thêm các biện pháp y học cần thiết, điều này sẽ làm tăng độ chính xác
trong việc xác định quan hệ cha mẹ và con nói chung, đặc biệt là xác định quan
hệ cha con đối với con ngoài giá thú.
Trong
trường hợp người phụ nữ sinh con mà không có quan hệ hôn nhân (tức là sinh con
ngoài giá thú), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy định những chủ thể
có quyền yêu cầu xác định quan hệ cha mẹ và con, mà không quy định cụ thể việc
xác định này phải dựa trên cơ sở nào. Đây cũng là 1 sự thiếu sót mà Luật Hôn
nhân và gia đình khi sửa đổi cần phải bổ sung thêm.
XEM THÊM: CÔNG TY TNHH 1 THÀNH VIÊN
III. KẾT LUẬN
Vấn
đề xác định cha, mẹ, con (kể cả con trong giá thú hoặc con ngoài giá thú) có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với thân phận của mỗi cá nhân trong xã hội. Quan hệ
pháp luật này được xác thực liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quan hệ này, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên khác trong
gia đình. Quy định nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha, mẹ, con là cơ sở
giải quyết các tranh chấp đối với loại án kiện xác định cha, mẹ, con trong thực
tế; liên quan đến việc giải quyết ổn thỏa, chính xác các tranh chấp về cấp dưỡng,
nuôi dưỡng, thừa kế, bồi thường thiệt hại… theo quy định của pháp luật.
Bài viết của em còn nhiều thiếu sót, mong các thầy
cô chỉnh sửa và xem xét để bài viết này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét