Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2000

LỜI MỞ ĐẦU

  Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hộitôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội. Để gia đình tồn tại và phát triển bền vững cần phải có các điều kiện về kinh tế làm nền tảng. Do vậy, chế độ tài sản vợ chồng là vấn đề được xã hội và các nhà làm luật quan tâm, coi trọng. Xây dựng chế độ tài sản trong hôn nhân đúng đắn là động lực đảm bảo sự ổn định của chế độ hôn nhân, các quan hệ hôn nhân.
  Chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm các quy định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng; căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng…Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) và hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, vấn đề tài sản vợ chồng vẫn còn nhiều vướng mắc, kẽ hở. Chính vì vậy, trong bài tiểu luận lần này em xin đi sâu vào phân tích “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” qua đó tìm ra phương hướng hoàn thiện những thiếu sót, bất cập của luật hiện hành.

NỘI DUNG

I. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

1. Tài sản chung của vợ chồng

1.1. Khái niệm tài sản chung vợ chồng

Việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Điều 27 Luật HN&GĐ quy định cụ thể tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau: Tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân; thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: có thể là tiền lương, tiền thưởng, tiển trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định từ Điều 239 đến 244 BLDS năm 2005; các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên; tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung hoặc được thừa kế chung; tài sản mà vợ chồng có trước thời kỳ hôn nhân hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ chồng đã thỏa thuận xác nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung; quyển sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi có thỏa thuận; đối với những tài sản mà phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn khác phải ghi tên cả hai vợ chồng. Đây chính là căn cứ pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp.

1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung

Theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung được quy định như sau:
Thứ nhất, theo Khoản 1 Điều 28 thì vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý và sử dụng tài sản chung.
Thứ hai, theo  Khoản 2 điều 28 thì quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo Khoản 1 điều 29 luật này.
Thứ ba, đối với giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản nhưng giá trị tài sản không lớn hoặc dùng để phục vụ nhu cầu thiết yếu hằng ngày cho gia đình thì chỉ cần do một bên vợ hoặc chồng thực hiện đương nhiên được coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ một bên vợ chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết hàng ngày thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới (Điều 25 Luật HN&GĐ)

1.3. Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng theo luật định

Các trường hợp chia tài sản vợ chồng: chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết, chia tài sản chung vợ chồng ly hôn
a) Chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân:
* Điều kiện: Theo khoản 1 Điều 29 quy định thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng: xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh,
 Thứ hai, trường hợp vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì họ có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình,
Thứ ba, Việc chia tài sản chung vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được chấp nhận.              
* Nguyên tắc chia: Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trước hết do vợ chồng thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Hậu quả pháp lý:
Quan hệ nhân thân: Sau khi chia tài sản chung, về mặt pháp lý, quan hệ nhân thân của vợ chồng không có gì thay đổi. Vợ, chồng vẫn có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ về nhân thân đối với nhau và với gia đình như nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, chăm sóc nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm…
Quan hệ tài sản: Tài sản chung đã chia trở thành tài sản riêng của vợ, chồng. Phần tài sản chung còn lại chưa chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
b) Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
* Điều kiện: Điều 31 Luật HN&GĐ quy định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý. Nếu yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiệm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng cho chia di sản trong thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu tòa án cho chia di sản thừa kế.
* Nguyên tắc chia: Pháp luật hiện hành không quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết.
* Hậu quả pháp lý: Sau khi chia tài sản chung, tài sản của người chồng hoặc vợ còn sống do người đó toàn quyền sử dụng, định đoạt. Tài sản của vợ, chồng đã chết trở thành di sản của người đó và được chia theo quy định của pháp luật thừa kế. Trong trường hợp người chồng hoặc vợ trước đó bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết nay có quyết định hủy bỏ tuyên bố chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân và tài sản) đương nhiên được khôi phục.
c) Chia tài sản vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
  * Điều kiện: Khi ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng được đặt ra như một tất yếu vì ly hôn làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng, chấm dứt cơ sở hình thành, phát triển của khối tài sản chung.
* Nguyên tắc chia: Theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000, khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi. Tuy nhiên, để đảm bảo thanh toán tài sản chung được công bằng, hợp lý Tòa án cần xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung, hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản …để quyết định chia tài sản chung bằng hiện vật hay giá trị, hoặc chia loại tài sản nào cho phù hợp. Khi chia quyền sử dụng đất, nhà ở phải đồng thời kết hợp với các nguyên tắc đặc thù khác để phù hợp với các quy định pháp luật đất đai, nhà ở…tạo lập, duy trì, phát triển tài sản nảy. Lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập,
  * Hậu quả pháp lý: Chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng hoàn toàn chấm dứt. Tài sản chung của vợ chồng sau khi chia cho vợ, chồng sẽ trở thành tài sản riêng của mỗi người và chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về sở hữu riêng.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN

2. Tài sản riêng vợ chồng

Điều 32 Luật HN&GĐ quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Việc quy định vợ, chồng có tài sản riêng không làm ảnh hưởng tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Việc vợ, chồng nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng vào khối tài sản chung của vợ, chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ chồng. Văn bản đó có thể công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ, chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thì vô hiệu.
  Tài sản riêng của vợ, chồng thì vợ hoặc chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt độc lập không phụ thuộc vào ý chí của người kia. Trong trường hợp vì lý do công tác hoặc bệnh tật mà vợ, chồng không thể trực tiếp quản lý được cũng không thể ủy quyền cho người khác quản lý thì người kia quản lý tài sản đó. Người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng sự công nhận của bên kia, bằng các giấy tờ như văn tự, di chúc hoặc các chứng cứ khác…Nếu người có tài sản không chứng minh được tài sản riêng của mình thì tài sản đó là tài sản chung của vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ, chồng dùng để thanh toán những nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người.

II. NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HN&GĐ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

1. Những vướng mắc, bất cập về chế độ tài sản vợ chồng trong thực tiễn

1.1 Tài sản chung của vợ chồng

1.1.1. Quy định về tài sản chung
  Theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản của vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng thì nó sẽ suy đoán là tài sản chung. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng dù trong thực tiễn rất khó phân biệt. Khi cuộc sống vợ chồng càng kéo dài thì các tài sản sẽ có xu hướng lẫn lộn với nhau, đặc biệt khi vợ chồng xác lập nhiều giao dịch liên quan đến tài sản. Do đó, không phải lúc nào nguồn gốc của tài sản cũng có thể xác định được đâu là tài sản chung và tài sản riêng. Quy định về tài sản chung mà nhà làm luật đặt ra trong Khoản 3 điều 27 mang tính chất suy đoán. Với tư cách là một nguyên tắc suy đoán thì không thể có sự khẳng định chắc chắn tất cả tài sản thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này chưa cụ thể gây khó khăn không chỉ trong việc chứng minh tài sản là của chung hay riêng mà còn trở ngại đối với người thứ ba, cụ thể là các chủ thể riêng của vợ, chồng trong việc yêu cầu kê biên tài sản riêng.
  Luật HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục được phần nào vướng mắc, phức tạp trong vấn đề xác định, phân chia tài sản vợ chồng. Khoản 2 điều 27 quy định “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng” . Đây là quy định mới khẳng sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ về tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của hai bên vợ chồng. Qua đó có thể tránh được những tranh chấp phát sinh về quyền tài sản giữa vợ chồng, đồng thời tạo cơ sở để tòa án giải quyết một cách đúng đắn việc phân chia tài sản. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc áp dụng các quy định này để chứng minh nguồn gốc của tài sản là tài sản chung hay tài sản riêng cũng hết sức khó khăn, phức tạp.
1.1.2 Quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 
Theo quy định của luật, trong trường hợp có lý do chính đáng, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể thực hiện thông qua thỏa thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng, hoặc quyết định của Tòa án; còn quan hệ nhân thân giữa vợ chồng không thay đổi. Cụ thể: cuộc sống gia đình có những mâu thuẫn bất hòa nhưng chưa muốn ly hôn hoặc chưa thể ly hôn vì nghĩ đến lợi ích của con cái, danh dự, uy tín…; nhằm giảm bớt xung đột của vợ chồng trong quan hệ tài sản; nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quyền tự chủ của các bên khi tham gia vào quan hệ kinh tế xã hội; nhằm đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Quy định về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là cần thiết nhưng chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp phát sinh. Đặc biệt, trong trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị tòa án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên luật chưa đề cập ai là người có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thỏa thuận vi phạm tại Điều 28 luật HNGĐ. Tuy nhiên khivợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung thì không có cơ chế nào được Luật nêu ra để kiểm soát được lý do chia tài sản chung của vợ chồng là có chính đáng hay không mà chỉ quy định vô hiệu khi lý do lập ra là để trốn tránh nghĩa vụ dân sự.
Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000) là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
Hậu quả pháp lý: Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Như vậy, quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng được mở rộng phạm vi đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng.
1.1.3. Quy định về chia tài sản chung khi ly hôn
  Thứ nhất, việc xác định tài sản chung trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản chung hoặc nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Pháp luật đã quy định "việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc quyền sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng" (Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 70). Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã nảy sinh nhiều vướng mắc như giá trị tài sản là bao nhiêu thì được coi là tài sản có giá trị lớn để việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung phải lập thành văn bản? Và khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ quan có thẩm quyền có phải yêu cầu vợ chồng xuất trình văn bản nhập tài sản riêng vào tài sản chung không? Quy định trên chỉ áp dụng đối với trường hợp vợ, chồng nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng hay áp dụng cả với trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản chung?
  Thứ hai, xác định tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình. Trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không thể xác định được, vợ chồng, gia đình và Tòa án sẽ phải căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung và đời sống chung của gia đình để xác định. Tuy nhiên, việc đánh giá và quy đổi một vấn đề trừu tượng như công sức đóng góp thành một khối lượng tài sản cụ thể là hết sức khó khăn đòi hỏi có sự thiện chí hợp tác của gia đình.
  Thứ ba, xác định tài sản chung là nhà ở, quyền sử dụng đất. Ttranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và nhà ở là phổ biến và cũng là các tranh chấp diễn ra gay gắt nhất. Do nhà ở và quyền sử dụng đất là những tài sản có giá trị lớn, quá trình hình thành, chuyển nhượng phức tạp trong khi đó, trình độ và ý thức tuân thủ pháp luật của người dân còn hạn chế dẫn tới tranh chấp gia tăng, việc xác định tài sản chung của vợ chồng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều vụ tranh chấp tài sản chung là nhà ở, quyền sử dụng đất kéo dài còn bắt nguồn từ sự yếu kém về trình độ chuyên môn của một bộ phận thẩm phán không xác định đúng chủ sở hữu quyền sử dụng đất.
1.1.4. Quy định về chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết
Khi mà một bên vợ, chồng đã chết, việc xác định tài sản chung của vợ chồng trong thực tế hết sức khó khăn, đặc biệt đối với những tài sản không đăng ký quyền sở hữu, những trường hợp nhập tài sản riêng vào tài sản chung hoặc thỏa thuận là tài sản chung mà không lập thành văn bản.
Chưa có quy định cụ thể về nguyên tắc chia tài sản chung khi một bên vợ chồng chết. Nghĩa là trường hợp vợ, chồng bị tòa án tuyên bố chết mà sau lại trở vệ, pháp luật mới dự liệu quan hệ hôn nhân được khôi phục; còn vấn đề tài sản được xác định thể nào thì pháp luật chưa quy định. Về nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng: Khác với luật 1986, tại điều 29, 30, 31, 95 chỉ quy định nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ, chồng khi ly hon, không dự liệu khi 1 hoặc 2 người chết.

1.2. Tài sản riêng của vợ chồng

Tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân được ghi nhận là tài sản riêng của vợ, chồng khoản 1 điều 32.Đây là quy định phù hợp với thực tế cuộc sống, bởi mọi cá nhân đều cần có sự độc lập về những đồ dùng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc phục vụ cho nghề nghiệp của ik mình.Tuy nhiên việc quy định đồ dùng, tư trag cá nhân là tài sản riêng mà không giải thích cụ thể sẽ có nhiều quan điểm khác nhau về loại tài sản này. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, đời sống vợ chồng không ngừng được nâng cao, đồ dùng tư trag cá nhân trở nên rất đa dạng,
Theo Khoản 3 điều 33 nghĩa vụ riêng về tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người có nghĩa vụ. Tuy nhiên quy định này còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể thì dẫn đến khó khăn cho cả vợ chồng xảy ra tranh chấp và cả tòa án khi xét xử.

2. Hướng hoàn thiện

2.1. Tài sản chung của vợ chồng

2.1.1.Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
       Thứ nhất, giới hạn quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Pháp luật cần quy định cụ thể về nghĩa vụ mà vợ, chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Đó là những nghĩa vụ riêng mà vợ, chồng không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện hoặc tài sản riêng đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng do đang được sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình nên phải thực hiện nghĩa vụ bằng phần tài sản của mình trong tài sản chung.
Thứ hai, quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cho người thứ ba (người có quyền). Theo em pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.
Thứ ba, quy định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được việc chia tài sản có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Trên cơ sở kế thừa quy định trên của Luật HN&GĐ năm 1986, theo em cần thiết phải quy định một giải pháp như sau: Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn quy định tại Điều 95 của Luật HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng các quy định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ.
Pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để làm cơ sở cho vợ chồng thực hiện cũng như Tòa án khi thụ lý, giải quyết yêu cầu của vợ chồng. Đồng thời, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng cần được bổ sung nguyên tắc chia tài sản chung tại Tòa án. Có thể quy định nguyên tắc chia theo hướng Tòa án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn. Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đều phải công chứng, chứng thực hoặc được Tòa án công nhận
Thứ tư, quy định cụ thể về lý do chính đáng. Pháp luật cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá lý do là chính đáng hay không chính đáng. Theo em lý do là chính đáng khi thuộc một trong các trường hợp: Vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung; vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung; một bên vợ hoặc chồng bị coi là vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 74 và Điều 78 BLDS năm 2005.
Ngoài ra cũng cần quy định cụ thể: Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.Toà án quyết định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình.
Thứ năm, bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý của chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần được quy định chặt chẽ và hợp lý hơn "Tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung do được thừa kế chung, tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp người để lại tài sản thừa kế, người tặng cho tài sản đã có sự phân định rõ quyền của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác".
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế định này đã phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các con, theo em, pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng tương tự quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
Thứ sáu, quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản được chia khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Để tránh tình trạng né tránh làm văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng đang diễn ra phổ biến trong thực tế, chúng tôi đề nghị các văn bản luật có liên quan, cụ thể là luật thuế thu nhập cá nhân hoặc văn bản hướng dẫn và Nghị định quy định về lệ phí trước bạ phải dự liệu thêm trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (đối với các tài sản là bất động sản, tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu) là trường hợp được miễn thuế, không phải nộp lệ phí trước bạ.
2.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Thứ nhất, hướng dẫn cụ thể về hình thức nhập tài sản riêng vào tài sản chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000. Việc thỏa thuận tài sản chung và việc nhập tài sản riêng của một bên vợ, chồng vào tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng nếu theo quy định của pháp luật tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
Thứ hai, hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ chồng sống cùng với gia đình. Quy định tại Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2000 cần được hướng dẫn cụ thể hơn về cách đánh giá công sức đóng góp, quy tắc "chia một phần trong khối tài sản chung". Việc có hướng dẫn chính thức từ phía TANDTC về các vấn đề trên sẽ giúp cho Tòa án các cấp có hướng giải quyết đúng đắn đối với các yêu cầu chia tài sản chung, đặc biệt là trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất chung của gia đình.
2.1.3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
Thứ nhất, quy định nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết. Cần quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết trước làm cơ sở giải quyết cho Tòa án các cấp. Trong trường hợp này chúng ta có thể kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 và Pháp lệnh thừa kế năm 1990 để quy định "Khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, nếu cần chia tài sản chung thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật thừa kế".
Thứ hai, quy định rõ hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết. Về hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết em xin kiến nghị một số hướng sửa đổi như sau:
- Nếu luật vẫn tiếp tục quy định khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ, chồng chết, quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục nếu người còn sống chưa kết hôn với người khác, thì cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề khôi phục quan hệ tài sản của vợ chồng đặc biệt là thời điểm khôi phục để có cơ sở xác định chính xác tài sản chung của vợ chồng.
- Quy định theo hướng quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một người bị tuyên bố là đã chết, ngay cả trong trường hợp sau này quyết định đó bị hủy bỏ. Nếu quy định theo hướng này, trước tiên chúng ta sẽ phải sửa đổi Khoản 2 Điều 83 BLDS năm 2005 sau đó mới có thể sửa Điều 26 Luật HN&GĐ năm 2000 để tránh tình trạng luật chuyên ngành mâu thuẫn với luật chung.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, em xin có 1 số kiến nghị sau:
* Nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc liên quan tới chia tài sản chung của vợ chồng.
* Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển các tổ chức hành nghề công chứng. Mọi văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều phải công chứng hoặc được Tòa án công nhận thì cần thiết phải có cơ chế hỗ trợ công chứng phát triển. Vì vậy, việc cấp phép thành lập mới các văn phòng công chứng tư phải đảm bảo theo quy hoạch, phân bổ hợp lý giữa các vùng, các địa phương. Đồng thời, Nhà nước cũng cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả để đảm bảo chất lượng công chứng.
* Triển khai đồng bộ, nghiêm túc quy định pháp luật về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
* Tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng pháp luật hôn nhân và gia đình đặc biệt là các quy định về tài sản chung của vợ chồng. Cần đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức của vợ chồng về các quy định liên quan đến tài sản của vợ chồng như quy định pháp luật về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, hình thức, thủ tục thực hiện các giao dịch về tài sản, quy định về đăng ký quyền sở hữu tài sản chung…

2.2. Tài sản riêng của v chồng

Tài sản là đồ dùng tư trang cá nhân được ghi nhận là tài sản riêng của vợ chồng theo Khoản 1 điều 32. Tuy nhiên, việc quy định đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng mà không giải thích cụ thể sẽ có nhiều quan điểm khác nhau về loại tài sản này. Vì vậy, khi xác định là tài sản riêng cần xem xét nguồn gốc và giá trị của đồ dùng, tư trang cá nhân đó so với giá trị khối tài sản chung và thu nhập của vợ chồng. nếu giá trị đó khá lớn và tài sản được sử dụng vào muc đích chung của gia đình thì không nên coi đó là tài sản riêng. Do đó, Luật cần quy định cụ thể nguồn gốc tài sản là đồ dùng tư trang cá nhân bao gồm những gì thuộc tài sản riêng vợ chồng. Vậy ở đây chúng ta có thể hiểu đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng với nguồn gốc phát sinh từ tài sản chung hay riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, phục vụ trực tiếp cho công việc, nghề nghiệp, nhu cầu sinh hoạt hang ngày của cá nhân vợ, chồng; mặt khác khi có tranh chấp về loại tài sản này, theo từng trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc và giá trị như thế nào so với khối tài sản chung của vợ chồng và mức thu nhập thực tế của vợ chồng để xác định chính xác và hợp lý.
  Tóm lại, quy định pháp luật về chia tài sản của vợ chồng có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, để các quy định này được áp dụng đúng và hiệu quả cần phải kết hợp nhiều giải pháp và thực hiện những giải pháp đó một cách đồng bộ trên thực tế từ việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật đến việc nâng cao trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp luật...

KẾT LUẬN

Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định cơ bản trong hệ thống các quy định pháp luật về HN&GĐ và trong thực tiễn xã hội. Hiện nay, pháp luật đã quy định nhiều vấn đề cụ thể về các trường hợp chia tài sản của vợ chồng nhằm tạo cơ sở pháp lý để vợ chồng thực hiện và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tình huống thực tế phát sinh được tiến hành thuận lợi. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế và chưa phù hợp dẫn đến phát sinh nhiều tranh chấp tài sản phức tạp, kéo dài. Các quy định về chia tài sản chưa cụ thể, chặt chẽ dễ dẫn đến tình trạng vợ chồng lạm dụng, nhà nước khó kiểm soát và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của những người có liên quan. Bên cạnh đó, do trình độ của một số thẩm phán còn hạn chế gây cản trở trong quá trình áp dụng pháp luật. Sự thiếu hiểu biết pháp luật của vợ chồng cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả áp dụng pháp pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thực tế.
Thực tế trên đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ từ việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật đến việc nâng cao trình độ đội ngũ thẩm phán, nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật của vợ chồng…để pháp luật phù hợp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đời sống, hạn chế những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, bảo vệ tốt hơn lợi ích hợp pháp của vợ chồng và của những chủ thể có liên quan.

 

 

 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét