LỜI MỞ ĐẦU
Hôn
nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình
cảm, xã hội và tôn
giáo một cách hợp
pháp. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia
đình ở hầu hết xã hội. Để gia đình tồn tại và
phát triển bền vững cần phải có các điều kiện về kinh tế làm nền tảng. Do vậy,
chế độ tài sản vợ chồng là vấn đề được xã hội và các nhà làm luật quan tâm, coi
trọng. Xây dựng chế độ tài sản trong hôn nhân đúng đắn là động lực đảm bảo sự ổn
định của chế độ hôn nhân, các quan hệ hôn nhân.
Chế độ
tài sản của vợ chồng bao gồm các quy định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng;
căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ
của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài
sản chung của vợ chồng…Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong Luật Hôn
nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) và hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên hiện
nay, vấn đề tài sản vợ chồng vẫn còn nhiều vướng mắc, kẽ hở. Chính vì vậy,
trong bài tiểu luận lần này em xin đi sâu vào phân tích “Chế độ tài sản của vợ chồng theo
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” qua đó tìm ra phương hướng hoàn thiện
những thiếu sót, bất cập của luật hiện hành.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
1. Tài sản chung của vợ chồng
1.1. Khái niệm tài sản chung vợ chồng
Việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải
dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Điều 27 Luật HN&GĐ quy định cụ thể tài
sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau: Tài sản do vợ chồng tạo ra,
thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân; thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: có thể là tiền lương,
tiền thưởng, tiển trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà
vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định từ Điều 239 đến 244 BLDS năm
2005; các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên; tài sản mà vợ
chồng được tặng cho chung hoặc được thừa kế chung; tài sản mà vợ chồng có trước
thời kỳ hôn nhân hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân
nhưng vợ chồng đã thỏa thuận xác nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật
quy định là tài sản chung; quyển sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được
trước khi kết hôn được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi có
thỏa thuận; đối với những tài sản mà phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở, quyền
sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn khác phải ghi tên cả hai vợ chồng.
Đây chính là căn cứ pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng khi có tranh chấp.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với
tài sản chung
Theo Luật HN&GĐ năm 2000 thì quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung được quy định như sau:
Thứ
nhất, theo Khoản 1 Điều 28 thì vợ chồng có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý và sử dụng tài sản chung.
Thứ
hai, theo
Khoản 2 điều 28 thì quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản
chung thể hiện trong việc xác lập giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản
chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản
chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản
chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo Khoản 1 điều 29 luật này.
Thứ
ba, đối với giao dịch dân sự có liên quan đến
tài sản nhưng giá trị tài sản không lớn hoặc dùng để phục vụ nhu cầu thiết yếu
hằng ngày cho gia đình thì chỉ cần do một bên vợ hoặc chồng thực hiện đương
nhiên được coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp vì lý do nào đó mà
chỉ một bên vợ chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung
của vợ chồng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết hàng ngày thì bên kia phải chịu
trách nhiệm liên đới (Điều 25 Luật HN&GĐ)
1.3. Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng
theo luật định
Các trường hợp chia tài sản vợ chồng: chia
tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết, chia tài sản chung vợ chồng ly hôn
a) Chia tài sản vợ chồng trong thời kì hôn
nhân:
* Điều kiện: Theo khoản 1 Điều 29 quy
định thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành
trong các trường hợp sau:
Thứ
nhất, vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng: xuất phát
từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng
muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều
kiện cho vợ chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh,
Thứ hai, trường hợp vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không
có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì họ có thể
chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình,
Thứ
ba, Việc chia tài sản chung vợ chồng nhằm trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được chấp nhận.
* Nguyên tắc chia: Chia tài sản chung
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trước hết do vợ chồng thỏa thuận. Nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Hậu quả pháp lý:
Quan hệ nhân thân: Sau khi chia tài sản
chung, về mặt pháp lý, quan hệ nhân thân của vợ chồng không có gì thay đổi. Vợ,
chồng vẫn có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ về nhân thân đối với nhau và với gia
đình như nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, chăm sóc nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình no ấm…
Quan hệ tài sản: Tài sản chung đã chia trở
thành tài sản riêng của vợ, chồng. Phần tài sản chung còn lại chưa chia và hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
b) Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết
* Điều kiện: Điều 31 Luật HN&GĐ
quy định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật
về thừa kế. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên
còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ
định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người
khác quản lý. Nếu yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng
nghiệm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên
còn còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế
được hưởng nhưng cho chia di sản trong thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do
Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa
kế khác có quyền yêu cầu tòa án cho chia di sản thừa kế.
* Nguyên tắc chia: Pháp luật hiện hành
không quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng
chết.
* Hậu quả pháp lý: Sau khi chia tài sản
chung, tài sản của người chồng hoặc vợ còn sống do người đó toàn quyền sử dụng,
định đoạt. Tài sản của vợ, chồng đã chết trở thành di sản của người đó và được
chia theo quy định của pháp luật thừa kế. Trong trường hợp người chồng hoặc vợ
trước đó bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết nay có quyết định hủy bỏ tuyên bố chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết
hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân (quan hệ nhân thân và tài sản) đương
nhiên được khôi phục.
c) Chia tài sản vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
* Điều
kiện: Khi ly hôn, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng được đặt ra như một
tất yếu vì ly hôn làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng, chấm dứt cơ sở
hình thành, phát triển của khối tài sản chung.
* Nguyên tắc chia: Theo quy định tại
Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000, khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng về
nguyên tắc được chia đôi. Tuy nhiên, để đảm bảo thanh toán tài sản chung được
công bằng, hợp lý Tòa án cần xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo
lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung, hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng
tài sản …để quyết định chia tài sản chung bằng hiện vật hay giá trị, hoặc chia
loại tài sản nào cho phù hợp. Khi chia quyền sử dụng đất, nhà ở phải đồng thời
kết hợp với các nguyên tắc đặc thù khác để phù hợp với các quy định pháp luật đất
đai, nhà ở…tạo lập, duy trì, phát triển tài sản nảy. Lao động của vợ chồng
trong gia đình được coi như lao động có thu nhập,
* Hậu
quả pháp lý: Chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng hoàn toàn chấm dứt. Tài
sản chung của vợ chồng sau khi chia cho vợ, chồng sẽ trở thành tài sản riêng của
mỗi người và chịu sự điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về sở hữu riêng.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
2. Tài sản riêng vợ chồng
Điều 32 Luật HN&GĐ quy định vợ, chồng
có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người
có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều
29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.Vợ, chồng có quyền nhập
hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Việc quy định vợ, chồng
có tài sản riêng không làm ảnh hưởng tính chất của quan hệ hôn nhân và cũng
không làm ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Việc vợ, chồng nhập tài sản là nhà ở,
quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá trị lớn thuộc sở hữu riêng vào khối
tài sản chung của vợ, chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ chồng.
Văn bản đó có thể công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật. Việc
nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ, chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ thì vô hiệu.
Tài sản riêng của vợ, chồng thì vợ hoặc chồng
có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt độc lập không phụ thuộc vào ý chí của
người kia. Trong trường hợp vì lý do công tác hoặc bệnh tật mà vợ, chồng không
thể trực tiếp quản lý được cũng không thể ủy quyền cho người khác quản lý thì
người kia quản lý tài sản đó. Người có tài sản riêng phải chứng minh được đó là
tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể được thực hiện bằng sự công nhận
của bên kia, bằng các giấy tờ như văn tự, di chúc hoặc các chứng cứ khác…Nếu
người có tài sản không chứng minh được tài sản riêng của mình thì tài sản đó là
tài sản chung của vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ, chồng dùng để thanh toán những
nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người.
II. NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ CHẾ ĐỘ TÀI
SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HN&GĐ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Những vướng mắc, bất cập về chế độ tài sản
vợ chồng trong thực tiễn
1.1 Tài sản chung của vợ chồng
1.1.1.
Quy định về tài sản chung
Theo
quy định tại Khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 thì trong trường hợp không
có chứng cứ chứng minh tài sản của vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản
riêng thì nó sẽ suy đoán là tài sản chung. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản
riêng của vợ, chồng dù trong thực tiễn rất khó phân biệt. Khi cuộc sống vợ chồng
càng kéo dài thì các tài sản sẽ có xu hướng lẫn lộn với nhau, đặc biệt khi vợ
chồng xác lập nhiều giao dịch liên quan đến tài sản. Do đó, không phải lúc nào
nguồn gốc của tài sản cũng có thể xác định được đâu là tài sản chung và tài sản
riêng. Quy định về tài sản chung mà nhà làm luật đặt ra trong Khoản 3 điều 27 mang
tính chất suy đoán. Với tư cách là một nguyên tắc suy đoán thì không thể có sự
khẳng định chắc chắn tất cả tài sản thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ
chồng. Quy định này chưa cụ thể gây khó khăn không chỉ trong việc chứng minh
tài sản là của chung hay riêng mà còn trở ngại đối với người thứ ba, cụ thể là
các chủ thể riêng của vợ, chồng trong việc yêu cầu kê biên tài sản riêng.
Luật
HN&GĐ năm 2000 đã khắc phục được phần nào vướng mắc, phức tạp trong vấn đề
xác định, phân chia tài sản vợ chồng. Khoản 2 điều 27 quy định “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng” . Đây là quy định mới khẳng
sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ về tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc bảo vệ quyền sở hữu của hai bên vợ chồng. Qua đó có thể tránh được
những tranh chấp phát sinh về quyền tài sản giữa vợ chồng, đồng thời tạo cơ sở
để tòa án giải quyết một cách đúng đắn việc phân chia tài sản. Tuy nhiên, trong
thực tiễn việc áp dụng các quy định này để chứng minh nguồn gốc của tài sản là
tài sản chung hay tài sản riêng cũng hết sức khó khăn, phức tạp.
1.1.2
Quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định của luật, trong trường hợp có
lý do chính đáng, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
có thể thực hiện thông qua thỏa thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng, hoặc quyết
định của Tòa án; còn quan hệ nhân thân giữa vợ chồng không thay đổi. Cụ thể: cuộc
sống gia đình có những mâu thuẫn bất hòa nhưng chưa muốn ly hôn hoặc chưa thể
ly hôn vì nghĩ đến lợi ích của con cái, danh dự, uy tín…; nhằm giảm bớt xung đột
của vợ chồng trong quan hệ tài sản; nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của cá
nhân, quyền tự chủ của các bên khi tham gia vào quan hệ kinh tế xã hội; nhằm đảm
bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của
vợ chồng.
Quy định về tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân là cần thiết nhưng chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng giải quyết
tranh chấp phát sinh. Đặc biệt, trong trường hợp chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị tòa án tuyên bố là vô hiệu. Tuy
nhiên luật chưa đề cập ai là người có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ thỏa thuận
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thỏa thuận vi phạm tại
Điều 28 luật HNGĐ. Tuy nhiên khivợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung thì không
có cơ chế nào được Luật nêu ra để kiểm soát được lý do chia tài sản chung của vợ
chồng là có chính đáng hay không mà chỉ quy định vô hiệu khi lý do lập ra là để
trốn tránh nghĩa vụ dân sự.
Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả
hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân,
quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận
(Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000) là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy
nhiên, nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải
có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ
tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ,
tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này
trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra
là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng
để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa
án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong
trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ)
về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ
thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
Hậu quả pháp lý: Trong trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc
sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung
của vợ chồng. Như vậy, quyền sở hữu tài sản riêng của vợ chồng được mở rộng phạm
vi đó là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng.
1.1.3.
Quy định về chia tài sản chung khi ly hôn
Thứ nhất, việc xác định tài sản chung trong trường hợp
vợ chồng thỏa thuận tài sản chung hoặc nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Pháp luật đã quy định "việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có
giá trị lớn thuộc quyền sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản
chung phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng" (Khoản
1 Điều 13 Nghị định số 70). Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã nảy sinh nhiều vướng
mắc như giá trị tài sản là bao nhiêu thì được coi là tài sản có giá trị lớn để
việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung phải lập thành văn bản?
Và khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cơ quan có thẩm quyền có phải yêu
cầu vợ chồng xuất trình văn bản nhập tài sản riêng vào tài sản chung không? Quy
định trên chỉ áp dụng đối với trường hợp vợ, chồng nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng hay áp dụng cả với trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản
chung?
Thứ hai, xác định tài sản chung trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình. Trường hợp tài sản của vợ
chồng trong khối tài sản chung của gia đình không thể xác định được, vợ chồng,
gia đình và Tòa án sẽ phải căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo
lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung và đời sống chung của gia đình để
xác định. Tuy nhiên, việc đánh giá và quy đổi một vấn đề trừu tượng như công sức
đóng góp thành một khối lượng tài sản cụ thể là hết sức khó khăn đòi hỏi có sự
thiện chí hợp tác của gia đình.
Thứ ba, xác định tài sản chung là nhà ở, quyền sử dụng đất. Ttranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và nhà ở là phổ biến và cũng là các tranh
chấp diễn ra gay gắt nhất. Do nhà ở và quyền sử dụng đất là những tài sản có
giá trị lớn, quá trình hình thành, chuyển nhượng phức tạp trong khi đó, trình độ
và ý thức tuân thủ pháp luật của người dân còn hạn chế dẫn tới tranh chấp gia
tăng, việc xác định tài sản chung của vợ chồng gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra,
nhiều vụ tranh chấp tài sản chung là nhà ở, quyền sử dụng đất kéo dài còn bắt
nguồn từ sự yếu kém về trình độ chuyên môn của một bộ phận thẩm phán không xác
định đúng chủ sở hữu quyền sử dụng đất.
1.1.4.
Quy định về chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết
Khi mà một bên vợ, chồng đã chết, việc xác định
tài sản chung của vợ chồng trong thực tế hết sức khó khăn, đặc biệt đối với những
tài sản không đăng ký quyền sở hữu, những trường hợp nhập tài sản riêng vào tài
sản chung hoặc thỏa thuận là tài sản chung mà không lập thành văn bản.
Chưa
có quy định cụ thể về nguyên tắc chia tài sản chung khi một bên vợ chồng chết.
Nghĩa là trường hợp vợ, chồng bị tòa án tuyên bố chết mà sau lại trở vệ, pháp
luật mới dự liệu quan hệ hôn nhân được khôi phục; còn vấn đề tài sản được xác
định thể nào thì pháp luật chưa quy định. Về nguyên tắc chia đôi tài sản chung
của vợ chồng: Khác với luật 1986, tại điều 29, 30, 31, 95 chỉ quy định nguyên
tắc chia đôi tài sản chung của vợ, chồng khi ly hon, không dự liệu khi 1 hoặc 2
người chết.
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY TNHH
1.2.
Tài sản riêng của vợ chồng
Tài
sản là đồ dùng, tư trang cá nhân được ghi nhận là tài sản riêng của vợ, chồng
khoản 1 điều 32.Đây là quy định phù hợp với thực tế cuộc sống, bởi mọi cá nhân
đều cần có sự độc lập về những đồ dùng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày hoặc phục vụ cho nghề nghiệp của ik mình.Tuy nhiên việc quy định đồ
dùng, tư trag cá nhân là tài sản riêng mà không giải thích cụ thể sẽ có nhiều
quan điểm khác nhau về loại tài sản này. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế,
xã hội, đời sống vợ chồng không ngừng được nâng cao, đồ dùng tư trag cá nhân
trở nên rất đa dạng,
Theo
Khoản 3 điều 33 nghĩa vụ riêng về tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng được
thanh toán từ tài sản riêng của người có nghĩa vụ. Tuy nhiên quy định này còn
quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể thì dẫn đến khó khăn cho cả vợ chồng xảy
ra tranh chấp và cả tòa án khi xét xử.
2.
Hướng hoàn thiện
2.1. Tài
sản chung của vợ chồng
2.1.1.Chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Thứ nhất, giới hạn quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Pháp luật cần quy định cụ thể về
nghĩa vụ mà vợ, chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Đó là những nghĩa vụ
riêng mà vợ, chồng không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện hoặc tài sản
riêng đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ nhưng do đang được sử dụng chung và hoa lợi,
lợi tức từ tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình nên phải thực hiện nghĩa
vụ bằng phần tài sản của mình trong tài sản chung.
Thứ
hai, quyền yêu cầu chia tài
sản chung của vợ chồng cho người thứ ba (người có quyền). Theo em pháp luật cần quy định rõ: Trong
trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận
hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục
đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu
cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần
tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các
khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc
chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có
nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán
các khoản nợ.
Thứ ba, quy định cụ thể trường hợp vợ
chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và nguyên tắc chia tài sản chung tại
Tòa án. Nếu vợ chồng không
thỏa thuận được việc chia tài sản có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản
hướng dẫn có liên quan chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của
Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn
cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật
HN&GĐ năm 1986 đã quy định: “Khi
hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể
chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Trên cơ sở kế thừa quy định trên của Luật HN&GĐ năm 1986, theo em
cần thiết phải quy định một giải pháp như sau: Khi chia tài sản chung, Toà án căn
cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung
được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi
ly hôn quy định tại Điều 95 của Luật HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử
dụng đất thì áp dụng các quy định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ.
Pháp luật nên có hướng dẫn
cụ thể về trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để làm cơ sở cho
vợ chồng thực hiện cũng như Tòa án khi thụ lý, giải quyết yêu cầu của vợ chồng.
Đồng thời, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng cần được bổ sung nguyên tắc chia tài sản
chung tại Tòa án. Có thể quy định nguyên tắc chia theo hướng Tòa án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản
chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung được
giải quyết theo các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn. Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đều
phải công chứng, chứng thực hoặc được Tòa án công nhận
Thứ tư, quy định
cụ thể về lý do chính đáng. Pháp luật cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá lý do là chính đáng hay
không chính đáng. Theo em lý do
là chính đáng khi thuộc một trong các trường
hợp: Vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung; vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc trong việc quản
lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung; một
bên vợ hoặc chồng bị coi là vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích
theo quy định tại Điều 74 và Điều 78 BLDS năm 2005.
Ngoài ra cũng cần quy định cụ thể: Trong trường hợp
vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì
có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.Toà án quyết định mức đóng góp của các bên
trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc
quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được
sử dụng cho nhu cầu của gia đình.
Thứ
năm, bổ sung thêm quy định về
hậu quả pháp lý của chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân cần được quy định chặt chẽ và hợp lý hơn "Tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài
sản chung do được thừa kế chung, tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp người để lại tài sản thừa kế, người tặng cho tài sản đã có sự
phân định rõ quyền của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó. Thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên
sau khi chia tài sản chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng
có thỏa thuận khác".
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân theo quy định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ
và chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế định
này đã phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về
tài sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc
một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh
chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có
thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các con, theo em, pháp luật cần quy định rõ: Trong trường hợp sau
khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không
có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình,
thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng
tương tự quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
Thứ
sáu, quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản
được chia khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Để tránh tình
trạng né tránh làm văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng đang diễn ra phổ biến trong thực tế, chúng tôi đề nghị các văn bản luật
có liên quan, cụ thể là luật thuế thu nhập cá nhân hoặc văn bản hướng dẫn và
Nghị định quy định về lệ phí trước bạ phải dự liệu thêm trường hợp chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân (đối với các tài sản là bất động sản, tài sản khác
phải đăng ký quyền sở hữu) là trường hợp được miễn thuế, không phải nộp lệ phí
trước bạ.
2.1.2. Chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn
Thứ
nhất, hướng dẫn cụ thể về hình
thức nhập tài sản riêng vào tài sản chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật
HN&GĐ năm 2000. Việc thỏa thuận tài sản chung và việc
nhập tài sản riêng của một bên vợ, chồng vào tài sản chung của vợ chồng phải được
lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng nếu theo quy định của pháp luật
tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
Thứ
hai, hướng dẫn cụ thể về
nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ chồng sống cùng với gia đình. Quy định tại Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2000 cần được
hướng dẫn cụ thể hơn về cách đánh giá công sức đóng góp, quy tắc "chia một phần trong khối tài sản chung".
Việc có hướng dẫn chính thức từ phía TANDTC về các vấn đề trên sẽ giúp cho Tòa
án các cấp có hướng giải quyết đúng đắn đối với các yêu cầu chia tài sản chung,
đặc biệt là trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất
chung của gia đình.
2.1.3. Chia tài sản chung của vợ
chồng khi vợ hoặc chồng chết
Thứ
nhất, quy định nguyên tắc chia
tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết. Cần quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng
khi một bên vợ hoặc chồng chết trước làm cơ sở giải quyết cho Tòa án các cấp.
Trong trường hợp này chúng ta có thể kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm
1986 và Pháp lệnh thừa kế năm 1990 để quy định "Khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, nếu cần chia tài sản chung
thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật
thừa kế".
Thứ
hai, quy định rõ hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ
hoặc chồng là đã chết. Về hậu quả của việc hủy
bỏ quyết định tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết em xin kiến nghị một số hướng sửa đổi như sau:
- Nếu luật vẫn tiếp tục quy định khi có quyết định hủy
bỏ quyết định tuyên bố vợ, chồng chết, quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi
phục nếu người còn sống chưa kết hôn với người khác, thì cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề khôi phục quan hệ
tài sản của vợ chồng đặc biệt là thời điểm khôi phục để có cơ sở xác định
chính xác tài sản chung của vợ chồng.
- Quy định theo hướng quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một người bị tuyên bố là đã chết,
ngay cả trong trường hợp sau này quyết định đó bị hủy bỏ. Nếu quy định theo
hướng này, trước tiên chúng ta sẽ phải sửa đổi Khoản 2 Điều 83 BLDS năm 2005 sau đó mới có thể sửa Điều 26 Luật
HN&GĐ năm 2000 để tránh tình trạng luật chuyên ngành mâu thuẫn với
luật chung.
Ngoài
ra, để nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, em xin có 1 số kiến nghị sau:
*
Nâng cao chất lượng xét xử
các vụ việc liên quan tới chia tài sản chung của vợ chồng.
* Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển các tổ chức hành nghề công chứng. Mọi văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân đều phải công chứng hoặc được Tòa án công nhận thì cần
thiết phải có cơ chế hỗ trợ công chứng phát triển. Vì vậy, việc cấp phép thành lập mới các văn phòng công chứng tư phải đảm
bảo theo quy hoạch, phân bổ hợp lý giữa các vùng, các địa phương. Đồng thời,
Nhà nước cũng cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả để đảm bảo chất
lượng
công
chứng.
* Triển khai đồng bộ, nghiêm túc quy định pháp luật
về đăng ký tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
* Tuyên truyền, phổ biến sâu, rộng pháp luật hôn nhân
và gia đình đặc biệt là các quy định về tài sản chung của vợ chồng. Cần đẩy mạnh tuyên truyền
và nâng cao nhận thức của vợ chồng về các quy định liên quan đến tài sản của vợ
chồng như quy định pháp luật về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, hình
thức, thủ tục thực hiện các giao dịch về tài sản, quy định về đăng ký quyền sở
hữu tài sản chung…
XEM THÊM:THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
2.2. Tài sản riêng của vợ chồng
Tài sản là đồ dùng tư trang cá nhân được ghi nhận là tài sản riêng
của vợ chồng theo Khoản 1 điều 32. Tuy
nhiên, việc quy định đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng mà không giải
thích cụ thể sẽ có nhiều quan điểm khác nhau về loại tài sản này. Vì vậy, khi
xác định là tài sản riêng cần xem xét nguồn gốc và giá trị của đồ dùng, tư trang cá nhân đó so với giá trị khối tài sản
chung và thu nhập của vợ chồng. nếu giá trị đó khá lớn và tài sản được sử dụng
vào muc đích chung của gia đình thì không nên coi đó là tài sản riêng. Do đó, Luật cần quy định cụ thể nguồn gốc tài sản là đồ dùng tư trang cá nhân bao gồm những gì thuộc tài sản
riêng vợ chồng. Vậy ở đây chúng ta có thể hiểu đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng với nguồn gốc
phát sinh từ tài sản chung hay riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, phục
vụ trực tiếp cho công việc, nghề nghiệp, nhu cầu sinh hoạt hang ngày của cá
nhân vợ, chồng; mặt khác khi có tranh chấp về loại tài sản này, theo từng trường
hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng, tư trang cá nhân có
nguồn gốc và giá trị như thế nào so với khối tài sản
chung của vợ chồng và mức thu nhập thực tế của vợ chồng để xác định chính xác
và hợp lý.
Tóm lại, quy định pháp luật về chia tài sản của vợ chồng có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, để các quy định này được áp dụng đúng và
hiệu quả cần phải kết hợp nhiều giải pháp và thực hiện những giải pháp đó một
cách đồng bộ trên thực tế từ việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật đến việc
nâng cao trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật, tuyên truyền phổ
biến pháp luật...
KẾT LUẬN
Chế độ tài sản của vợ chồng
là một chế định cơ bản trong hệ thống các quy định pháp luật về HN&GĐ và
trong thực tiễn xã hội. Hiện nay, pháp luật đã quy định nhiều vấn đề cụ thể về
các trường hợp chia tài sản của vợ chồng nhằm tạo cơ sở pháp lý để vợ chồng thực
hiện và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tình huống thực tế phát sinh
được tiến hành thuận lợi. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, các quy định này đã
bộc lộ nhiều hạn chế và chưa phù hợp dẫn đến phát sinh nhiều tranh chấp tài sản
phức tạp, kéo dài. Các quy định về chia tài sản chưa cụ thể, chặt chẽ dễ dẫn đến
tình trạng vợ chồng lạm dụng, nhà nước khó kiểm soát và ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích của những người có liên quan. Bên cạnh đó, do trình độ của một số thẩm phán
còn hạn chế gây cản trở trong quá trình áp dụng pháp luật. Sự thiếu hiểu biết
pháp luật của vợ chồng cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả áp
dụng pháp pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thực tế.
Thực tế trên đòi hỏi phải
có những giải pháp đồng bộ từ việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật đến việc
nâng cao trình độ đội ngũ thẩm phán, nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp
luật của vợ chồng…để pháp luật phù hợp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đời
sống, hạn chế những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, bảo vệ tốt hơn
lợi ích hợp pháp của vợ chồng và của những chủ thể có liên quan.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét