A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế
hiện nay, nước ta đang từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhằm theo kịp với trình
độ phát triển của các quốc gia lớn và để chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả, hoàn
thiện và minh bạch chính sách thuế trong công tác nhập khẩu là một nội dung cực
kỳ quan trọng. Chính sách thuế nhập khẩu có hoàn thiện mới thúc đẩy quan hệ
kinh tế thương mại quốc tế phát triển. Kinh tế thương mại quốc tế phát triển sẽ
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trang bị kỹ thuật phục vụ quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thuế
nhập khẩu trên thực tế vấn còn rất nhiều vướng mắc. Chính vì vậy, nhóm em xin
chọn đề tài: “Thực tiễn áp dụng thuế nhập khẩu” để nghiên cứu.
B
– NỘI DUNG
I
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ NHẬP KHẢU.
1.
Khái niêm, đặc điểm, vai trò của thuế nhập khẩu.
a, Khái niệm.
Hiện nay ở nước ta còn nhiều cách
hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhập khẩu tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
Tuy nhiên, dựa trên Luật thuế Xuất khẩu, nhận khẩu 2205 và Luật Hải quan sửa
đổi bổ sung 2005 thì thuế nhập khẩu có thể được định nghĩa như sau: “Thuế nhập khẩu là loại thuế tác động tới
hàng hóa được nhập vào “những
khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa vủa Việt Nam, nơi luật Hải quan được áp dụng”.
b, Đặc điểm.
Từ định nghĩa trên có thể thấy
thuế nhập khẩu có những đặc điểm sau.
Thứ
nhất, đối tượng chịu thuế nhập khẩu là hàng hóa được phép vận chuyển
qua biện giới Việt Nam
hoặc được coi là hàng hóa nhập khẩu. Cũng theo luật thuế xuất nhập khẩu và luật
thuế Hải quan sửa đổi bổ sung 2005 thì hàng hóa nhập khẩu cũng không phân biệt
tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa có mục đích kinh doanh hay không kinh
doanh.
Thứ
hai, thuế
nhập khẩu không hoàn toàn là thuế trực thu hay gián thuế gián thu. Điều này thể
hiện ở chỗ, khi một nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng
hóa đó mà không bán ra bên ngoài thì thuế nhập khẩu đã nộp là thuế trực thu vì
người nhập khẩu vừa là người nộp thuế đồng thời lại là người chịu thuế. Ngược
lại khi người nhập khẩu hàng hóa đố bán hàng hóa ra bên ngoài thì thuế nhập
khẩu đã nộp là thuế gián thu vì người nộp thuế nhập khẩu và người chịu thuế
không phải là một.
Thứ
ba, thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi
quốc gia trong từng thời kì bởi hoạt động ngoại thương là một trong những hình
thức hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại mà thuế nhập khẩu là công cụ góp
phần thực hiện vai trò quản lí, kiểm soát hoạt động ngoại thương của nhà nước.
Thứ
tư, thuế
nhập khẩu được quản lí thu bởi cơ quan chuyên trách là cơ quan hải quan.
c, Vai trò.
Thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó thuế nhập khẩu còn có tác động tới số lượng và
cơ cấu các nguồn thu từ các loại thuế liên quan. Trong quan hệ với các loại
thuế khác, thuế nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách nhà nước từ
những hình thức
thuế gắn với hoạt động kinh doanh, thương mại trong khuôn khổ cam kết quốc tế.
Thuế nhập khẩu được nhà nước sử
dụng như một công cụ để điều tiết hoạt
động nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng. Thuế nhập khẩu đánh trên hàng hóa nhập
khẩu làm cho chúng đắt đỏ hơn với người tiêu dùng nội đại và như vậy làm chúng
kém sức cạnh tranh so với hàng hóa sản xuất trong nước.
Thuế nhập khẩu là công cụ hỗ trợ
và bảo hộ nền sản xuất trong nước. Thông qua thuế nhập khẩu nhà nước gián tiếp
tác động vào việc điều tiết sản xuất trong nước. Đây cũng là một trong những
điểm khác biệt của thuế nhập khẩu so với các loại thuế khác .
Thuế nhập khẩu còn là công cụ tạo
thuận lợi cho quốc gia trong đàm phán thương mại, là công cụ thể hiện thái độ
của quốc gia đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc
tế.
Bên cạnh đó thuế nhập khẩu còn
giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài là công cụ chống lạm phát. Trong những trường hợp đặc biệt, thuế nhập
khẩu được sử dụng như những biện pháp tự vệ hay trả đũa nhằm bảo vệ lợi ích
kinh tế hoặc bù đắp những tổn thất do các biện pháp thương mại không lành mạnh.
Như
vậy, thuế nhập khẩu có vai trò rất to lớn và trong nhiều trường hợp vai trò của
nó đã vượt ra bên ngoài phạm vi nền kinh tế của một quốc gia. Đánh giá chính
xác vai trò của thuế nhập khẩu trong quá trình hoạch định chính sách và xây
dựng pháp luật thuế nhập khẩu là yêu cầu
tất yếu, khách quan và có ý nghĩa thực tiễn.
XEM THÊM: ĐĂNG KÍ HỘ KINH DOANH
2.
Pháp luật thuế nhập khẩu.
Pháp luật về thuế thuế nhập khẩu
là danh từ dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính
thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lí các vi
phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước với người nộp thuế.
Nội dung của thuế nhập khẩu bao gồm:
a, Chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
*
Người nộp thuế
Điều
4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 quy định rõ về người nộp thuế là tổ chức, cá nhân
có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nhập khẩu theo quy định của
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tổ chức, cá nhân được hiểu chính là người
đứng tên làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa tại cửa khẩu.
Người trực tiếp đứng tên làm thủ
tục nhập khẩu hành hóa cho chính mình (kể cả trường hợp tổ chức, cá nhân Việt
Nam nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về để bán tại VN với tư cách là bên đại lí
tiêu thụ sản phẩm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài theo hợp đồng đại lí tiêu thụ
sản phẩm).
Người nhận ủy thác nhập khẩu hành
hóa cho chủ thể khác theo hợp đồng ủy thác nhập khẩu.
Trong một số trường hợp, người
làm thủ tục nộp thuế nhập khẩu với hải quan có thể là người nộp thuế ủy quyền
như đại lí hải quan, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ quản lí thuế, doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ bưu chính….
*
Người thu thuế
Người có thẩm quyền thu thuế là
Nhà nước nhưng Nhà nước thành lập nhiều cơ quan để thực hiện vai trò là cơ quan
thu thuế. Thẩm quyền tổ chức việc thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là Tổng cục hải
quan, ngoài ra còn trao quyền cho Bộ tài chính; Kho bạc Nhà nước; Tổng cục
thuế; Ủy ban nhân dân các cấp chính quyền địa phương… và tham gia ở các mức độ
khác nhau.
b, Căn cứ tính thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
- Đối với những mặt hàng áp dụng
thuế suất theo tỉ lệ phần trăm (%), căn cứ tính thuế:
+) Số lượng đơn vị từng mặt hàng
thực tế nhập khẩu được ghi trong tờ khai hải quan.
+) Giá tính thuế đối với đơn vị
hàng hóa nhập khẩu.
+) Thuế suất theo tỷ lệ phần trăm
(%) đối với hàng hóa nhập khẩu.
- Đối với những mặt hàng nhập
khẩu được áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế nhập khẩu sẽ là:
+) Số lượng đơn vị từng mặt hàng
nhập khẩu được ghi trong tờ khai hải quan.
+) Mức thuế tuyệt đối quy định
trên một đơn vị hàng hóa nhập khẩu.
*
Trị giá hải quan (trị giá tính thuế)
Theo quan niệm chung, trị giá hải
quan là trị giá giao dịch của hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Thông thường, trị giá hải quan được
xác định bằng cách lấy giá tính thuế đối với đơn vị hàng hóa xuất nhập khẩu
nhân với số lượng hàng hóa xuất, nhập khẩu được ghi trong tờ khai hải quan.
*
Thuế suất
Theo pháp luật Việt Nam hiện
hành, biểu thuế suất thuế nhập khẩu, xuất khẩu do Nhà nước quy định trong các
văn bản pháp luật và cơ quan thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chỉ cần căn cứ
vào biểu thuế suất đó để áp dụng cho loại hàng hóa cụ thể được xuất khẩu hay
nhập khẩu.
Thuế suất đối với hàng nhập khẩu
đã được quy định theo hướng có sự phân biệt giữa thuế suất thông thường, thuế
suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt.
c,
Trình tự, thủ tục hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Theo quy định pháp luật Việt Nam bao gồm các
bước sau:
- Kê khai thuế và tính thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu.
- Nộp thuế và bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
d,
Chế độ miễn giảm thuế, hoàn thuế và truy thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
*
Miễn, giảm, thuế nhập khẩu
- Người nộp thuế được miễn thuế
theo quy định tại Điều 16 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
- Người nộp thuế được xét miễn
thuế theo quy định tại Điều 17 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
- Người nộp thuế được xét giảm
thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu theo quy định tại Điều 18 Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
Việc chấp nhận miễn thuế, giảm
thuế được cơ quan có thẩm quyền thực hiện bằng văn bản quyết định miễn thuế,
giảm thuế và được gửi cho đương sự cùng các cơ quan hữu trách để thực hiện.
*
Hoàn thuế và truy thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
- Người nộp thuế có thể được xét
hoàn lại số tiền thuế đã nộp theo quy định tại Điều 19 Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu.
Để được xét hoàn thuế xuất khẩu
hoặc thuế nhập khẩu, người nộp thuế phải lập hồ sơ xin hoàn thuế tại cơ quan
thu thuế.
- Truy thu thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định truy đòi số tiền thuế
chưa nộp theo quy định đối với người nộp thuế trong những trường hợp quy định.
Ngày nay, trước xu hướng toàn
cầu, nước ta cũng mở rộng quan hệ, hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại với
nền kinh tế thế giới, tham gia thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan thuế
nhập khẩu cũng là điều tất yếu. Pháp luật thuế nhập khẩu nước ta hiện nay không
chỉ trong phạm vi luật quốc gia mà bao hàm cả quy định pháp luật quốc tế như
Hiệp định CEPT về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung, Hiệp định thương mại Việt
Nam
– Hoa Kỳ, Hiệp định GATT, hiệp định WTO.
II
– THỰC TIỄN ÁP DỤNG THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.
Thực trạng áp dụng thuế nhập khẩu
ở nước ta hiện nay.
a, Thực tiễn áp dụng pháp luật về
căn cứ tính thuế
Một
vấn đề khá nan giải đối với nhân viên hải quan tại các cửa khẩu chính là việc
xác định giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. theo thống kê của ngành hải quan
thì trong số các vụ trốn thuế nhập khẩu, số vụ do gian lận về giá chiếm tỉ lệ
cao, với quy định hiện hành, việc kê khai thuế chủ yếu dựa trên thái độ trung
thực của người nhập khẩu, và giá tính thuế nhập khẩu được tính theo giá trị
giao dịch thực tế của hàng hóa. Nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề về cách
gian lận về giá.
Thứ nhất, khai báo không trung thực. với
cách này bên nhập khẩu sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo giá trị hàng
hóa nhập khẩu thấp hơn so với giá hàng hóa trong thực tế. Các hợp đồng, chứng
từ thanh toán qua ngân hàng chỉ thể hiện phần nào nội dung mà cơ quan hải quan
đang kiểm tra, không thể hiện đầy đủ giá trị khai báo. Đa số nhà xuất khẩu khi
đã có quan hệ giao dịch với nhà nhập khẩu thì họ đều bảo vệ khách hàng của mình
vì điều này có lợi cho nhà xuất khẩu tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa. Do đó,
giao dịch dễ dàng được thực hiện theo hai hay nhiều hợp đồng để đối phó với cơ
quan hải quan.
Thứ hai, khai thấp về chất lượng hàng
hóa.
Như
vải, sợi, sắt thép…doanh nghiệp sẽ khai báo hàng hóa của họ là thứ hàng phẩm,
hàng tồn kho…nhưng trên thực tế, một số doanh nghiệp khai báo thép cuộn của họ
là thép cuộn loại 2 nên giá khai báo thấp hơn trên cơ sở dữ liệu giá mà các
doanh nghiệp khác đã nhập, khi cán bộ giá hỏi cơ sở nào xác định hàng loại 2
thì doanh nghiệp không giải trình được. Những trường hợp nêu trên đều bị hải
quan bác giá khai báo và chịu truy thu thuế sau khi tham vấn.
Thứ ba, khi khai báo gian lận qua giá là
đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại cao hơn.
Ví
dụ, doanh
nghiệp khai báo đồng hồ treo tường, nếu không để ý rõ, yêu cầu doanh nghiệp
xuất trình mẫu hàng hoặc ra bãi xem hàng cụ thể thì cán bộ hải quan dễ bị ngộ
nhận vì đồng hồ treo tường có hàng trăm loại khác nhau, có loại giá vài chục
nghìn, cũng có loại như đồng hồ điện tử có hiển thị độ ẩm, nhiệt độ phòng, có
âm lịch dương thì giá ngoài thị trường trên 500.000 đồng/ chiếc.
Với
những thủ đoạn như trên, đòi hỏi cán bộ hải quan phải thu thập các nguồn thông
tin bằng các kỹ năng, nghiệp vụ giỏi mới có cơ sở bác bỏ trị giá khai báo của
doanh nghiệp nhập khẩu. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp công tác xác định
trị giá tính thuế gặp nhiều khó khăn khi tham vấn giá với các doanh nghiệp.
b, Thực tiễn áp dụng pháp luật
thuế về thuế suất thuế nhập khẩu.
Thuế
suất thuế nhập khẩu là căn cứ quan trọng nhất để xác định số thuế nhập khẩu mà
nhà nhập khẩu phải nộp cho nhà nước. việc quy định thuế suất là rất rõ ràng
trong các văn bản pháp luật và các cam kết quốc tế, song việc áp dụng trên thực
tế lại vô cùng phức tạp. các nhà nhập khẩu có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn
thuế, hưởng thuế suất thấp hơn để thoát khỏi hoặc giảm bớt một phần nghĩa vụ
thuế đối với nhà nước.
Thứ nhất, một trong số những thủ đoạn
được coi là ngày càng tinh vi được các nhà nhập khẩu sử dụng là gian lận giấy
chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Thứ hai, thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất
xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết
giảm thuế.
Thứ ba, thủ đoạn gian lận khác mà nhà
nhập khẩu sử dụng là khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã
và hưởng thuế suất thấp hơn.
Về
việc quy định mức thuế xuất của Luật thuế nhập khẩu, nhìn chung không có vấn đề
gì. Song trên thực tế, đối với một số mặt hàng có sự phân biệt thuế suất đối
với hàng mới và loại đã qua sử dụng diễn biến phức tạp hơn, điển hình là nhập
khẩu ô tô loại mới và loại đã qua sử dụng.
c, Thực tiễn áp dụng pháp luật về
kê khai thuế nhập khẩu
Theo
quy định hiện hành của pháp luật thuế nhập khẩu, việc kê khai thuế nhập khẩu là
do chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà
nhập khẩu phải thực hiện tự giác, trung thực, nghiêm chỉnh.
Nội
dung kê khai thuế trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập
khẩu, số lượng hàng nhập khẩu và trị giá hải quan. Cả 3 nội dung này, trên thực
tế đều không được kê khai một cách trung thực và khó có thể dựa trên ý thức “tự
giác” của nhà nhập khẩu.
Về
vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng hóa nhập khẩu một
cách chính xác, bởi lẽ hàng hóa nhập khẩu vô cùng đa dạng về chủng loại.
Về
số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra bãi kiểm tra một cách trực tiếp thì
không thể hoàn toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà nhập khẩu khai báo. Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều
có số lượng thừ rất nhiều so với số
lượng khai báo, đặc biệt là đối với
nguyên liệu dệt may, rất khó có thể kiểm tra xem có phải hàng lậu hay không.
Hiện
nay, công tác kiểm tra của hải quan chủ yếu được tiến hành thủ công, bên cạnh
đó năng lực cán bộ hải quan còn nhiều yếu kém nên thực tế công việc không thể
kiểm soát được hết hàng hóa, và hàng lậu thì vẫn theo những lô hàng hợp pháp
tràn vào Việt Nam một cách tự do.
d, Thực tiễn áp dụng pháp luật về
nộp thuế nhập khẩu
Mặt
dù Điều 15 Luật thuế xuất nhập khẩu 2005 quy định khá rõ ràng về thời hạn nộp
thuế, nhưng trong thực tế đã xảy ra rất
nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế để gây thất thu thuế cho Nhà
nước.
Theo
cục điều tra chống buôn lậu, tình trạng buôn lậu đang ngày càng diễn ra hết sức
phức tạp tại các cảng biển. Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi Việt Nam phổ biến áp
giá tính thuế theo những cam kết với WTO, doanh nghiệp tự khai báo tự xác định
trị giá tính thuế trên tờ khai. Chính vì vậy, các đối tượng đã sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, đặc biệt
là việc thông đồng làm giả hợp đồng thương mại, khai báo giá trị thấp so với
thực tế. nhiều doanh nghiệp, cá nhâ nhập khẩu đã lợi dụng chính sách thông
thoáng, miễn hoặc kiểm tra theo tỉ lệ để nhập khẩu hàng thừa so với hợp đồng,
khai báo hải quan không đúng… không chỉ diễn ra tại các cảng biển, hoạt động
buôn lậu còn có những diễn biến phức tạp trên cả đường bộ, hàng không, đường
bưu điện.
Trên
tuyến biên giới đường bộ, vận chuyển trái phép hàng hóa diễn ra phức tạp và tập
trung chủ yếu một sô địa bàn trọng điểm như Móng Cái ( Quảng Ninh), Tân Thanh,
Chi Mai ( Lạng Sơn) Cầu treo ( Hà Tĩnh) Lao Bảo (quảng Trị)…các hàng hóa nhập
khẩu khá đa dạng nhưng phần lớn là hàng thương mại. buôn lậu trên tuyến hàng
không, bưu điện vẫn tập trung ở hai cửa khẩu sân bay quốc tế là Hà Nội và Tân
Sơn Nhất, Bưu điện Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hàng buôn lậu phát hiện ở
những nơi này tập trung vào các mặt hàng mĩ phẩm, tân dược nhập khẩu không có
giấy phép…
e, Thực tiễn áp dụng pháp luật
thuế về miễn, giảm thuế nhập khẩu.
Một
trong những nội dung quan trọng của quá trình hành thu thuế nhập khẩu là vấn
đề xác định hàng hóa nhập khẩu nằm trong
diện được miễn giảm thuế nhập khẩu. Lợi dụng những ưu đãi của pháp luật, nhiều
người đã nhập khẩu hàng hóa dưới chiêu bài “hàng miễn thuế” trá hình. Cụ thể
là:
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 5 Điều
16 Luật thuế xuất nhập khẩu năm 2005, hàng hóa nhập khẩu trong tiêu chuẩn hành
lý miễn thuế của người nhập cảnh được miễn thuế. Lợi dụng quy định này, nhiều
đối tượng đã nhập lậu hàng hóa về Việt Nam theo đường phi mậu dịch và xách
tay qua các sân bay. Hơn nữa, chúng còn móc nối với một số cán bộ nhân viên hải
quan, các phi công, tiếp viên hàng không gây thất thu thuế nhập khẩu cho nhà
nước.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 4 Điều
16 Luật thuế xuất nhập khẩu thì hàng hóa nhập khẩu theo một hợp đồng gia công
cho bên nước ngoài rồi xuất khẩu cũng nằm trong diện miễn thuế. Nắm bắt tinh
thần của điều luật này, nhiều cá nhân doanh nghiệp đã lợi dụng để trốn thuế.
Thực
tế trên cho thấy, việc áp dụng thuế xuất nhập khẩu 2005 trên thực tế vô cùng
phức tạp, do số lượng cũng như tính chất các vụ trốn thuế nhập khẩu ngày càng tăng và tinh vi hơn. Mặt
khác do lực lượng hải quan của ta còn thiếu và yếu, trong khi các đối tượng
buôn lậu ngày càng liều lĩnh và tinh vi hơn. Điều này đòi hỏi pháp luật thuế
nhập khẩu phải không ngừng hoàn thiện để bám sát thực tế, tránh tình trạng nạn
buôn lậu hoành hành gây thất thoát thuế nhà nước.
2.
Đánh giá việc áp dụng thuế nhập
khẩu ở nước ta hiện nay.
a, Thuận
lợi
Thủ
tục hành chính thuế nhập khẩu đã từng bước được cải tiến. Các thủ tục
về thuế nhập khẩu đã đơn giản hơn, thời gian giải quyết các công việc nhanh
chóng hơn. Các cơ sở kinh doanh tự xác định các điều kiện ưu đãi, mức thuế suất
ưu đãi, điều kiện miễn giảm thuế mà theo quy định của các văn bản pháp luật và
thông báo cho cơ quan thuế biết mà không cần làm thủ tục xin miễn giảm thuế
nhập khẩu.
Cơ
chế quản lý thuế nhập khẩu ngày càng được hoàn thiện phù hợp với sự phát triển
của nền kinh tế, phù hợp với trình độ quản lý của cơ quan thuế và hải quan, của
cán bộ thuế và hải quan. Đó là cơ chế người nộp thuế tự tính, tự kê khai, và tự
nộp thuế theo thông báo. Việc kiểm tra hàng hoá nhập khẩu được phân loại theo
mức độ tín nhiệm, có trường hợp không cần phải kiểm tra, có trường hợp phái
kiểm tra mẫu, có trường hợp phải kiểm tra 100%.
b,
Khó khăn.
Tình
trạng gian lận thuế, nợ thuế còn khá phổ biến, không những làm thất thu ngân sách
nhà nước mà còn tạo sự không bình đẳng, công bằng xã hội và cạnh tranh trong cơ
chế thị trường. Nguyên nhân trước hết là do người nộp thuế chưa hiểu sâu sắc về
trách nhiệm, nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước và đặc biệt là quyền thụ hưởng
lợi ích từ tiền thuế do mình đóng góp, dẫn đến tuân thủ pháp luật thuế chưa
cao. Hơn nữa, những quy định của pháp luật còn nhiều điểm thiếu sót, chưa chặt
chẽ, chồng chéo nên cũng dễ tạo điều kiện cho hiện tượng gian lận trốn thuế.
3.
Một số giải pháp
Một
là, phải hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu ở một
số nội dung. Ví dụ như về biểu thuế. Chính phủ và Bộ tài chính đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung biểu thuế nhập khẩu cho phù
hợp với thực tế nhập khẩu ở nước ta. Tuy nhiên, chính việc sửa đổi, bổ sung như
vậy đã làm cho việc tra cứu, áp dụng gặp khó khăn dễ dẫn đến tình trạng tùy
tiện. Do vậy, theo nhóm em thì nên thống nhất các văn bản để hệ thống hóa biểu
thuế trên cơ sở điều chỉnh các mức thuế cho phù hợp. Biểu thuế đó phải đảm bảo
tính thống nhất, tính lâu dài và tính phù hợp với thực tế nhập khẩu làm cơ sở
cho việc nộp thuế, thu thuế và quản lí thuế được thuận lợi hơn. Về hoàn
thuế, để quản lí chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phù hợp với thực tế hoạt động
kinh doanh nhập khẩu, tránh lợi dụng ưu đãi của Nhà nước để trốn thuế, đảm bảo
công bằng, thu đúng
nhưng phải thu đủ nên vấn đề hoàn thuế được đặt ra là cần thiết. Nhưng những quy định về hoàn thuế
trong luật thuế xuất nhập khẩu có quá nhiều thủ tục phiền hà, gây khó khăn cho
cơ quan thu thuế và đối tượng nộp thuế. Vì vậy, nên giảm bớt một số thủ
tục không cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho cả người thu thuế lẫn người
nộp thuế trong việc thi hành thuế nhập khẩu.
Hai
là, phải tổ chức tăng cường đội ngũ cán bộ thuế. Luật
đã được ban hành nhưng nó chỉ có ý nghĩa khi được tổ chức thực hiện tốt trên
thực tế. Đội ngũ cán bộ thuế đóng vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức
thực hiện và bảo đảm cho Luật thuế nhập khẩu được
thực hiên đúng trên thực tiễn. Theo nhóm em, đội ngũ cán bộ thuế phải được tổ
chức, tăng cường theo hướng : phải được tổ chức thành một hệ thống chặt
chẽ được hoạt động theo quy chế chung của ngành thuế và quy định cụ thể của
ngành thuế nhập khẩu ; phải là những người được tuyển chọn để có cả đức
lẫn tài mà thực sự phải có chuyên môn nghiệp vụ được tập huấn, đào tạo phù hợp
với thực tế nhập khẩu đang đặt ra ; thực hiện chính sách khen thưởng, kỷ
luật nghiêm minh, chấp hành tốt thì được khen thưởng, nếu vi phạm sẽ bị xử lí
nghiêm khắc.
Cuối
cùng, phải tổ chức tuyên truyền pháp luật cho nhân dân, giúp
họ nhận thức về pháp luật thuế nhập khẩu một cách đúng đắn để tránh tình trạng
trốn thuế, gian lận thuế như hiện nay.
C – KẾT
LUẬN.
Luật
thuế nhập khẩu ra đời và được tổ chức thực hiện trên thực tế đã tỏ rõ vai trò
là một công cụ kinh tế nhằm tạo lập cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, đảm
bảo sự thống nhất sự tăng trưởng trong nền kinh tế và cân bằng xã hội. Luật
thuế nhập khẩu đã tạo ra một cơ chế pháp lí để chính sách kinh tế của Đảng và
Nhà nước ta được thực thi có hiệu quả trên thực tế - góp phần mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế qua chính sách nhâp khẩu; đồng thời với hàng rào thuế quan đó,
nó đã bảo vệ được nền sản xuất trong nước và kích thích sự cạnh tranh lành mạnh
trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc áp dụng luật này trên thực tế vẫn còn nhiều
bất cập. Chính vì vậy mà nó luôn đòi hỏi các nhà làm luật phải ngày càng hoàn
thiện hơn nữa những quy định trong Luật thuế nhập khẩu này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét