PHẦN
A – NÊU Ý KIẾN CÁ NHÂN VỀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLLĐ VN HIỆN HÀNH VỀ TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG TẬP THỂVÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TẬP THỂ?
I – ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời đại hội nhập kinh tế
ngày nay, quan hệ lao động ngày càng được mở rộng, mang lại nhiều cơ hộ việc
làm và thu nhập cho người lao động nhưng cũng tiềm ẩn không ít nguy cơ xảy ra
tranh chấp lao động, mà nhất là tranh chấp lao động tập thể. Do đó, pháp luật
lao động đặc biệt chú trọng về vấn đề này nhằm ổn định quan hệ lao động, đẩy
mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Chế định giải quyết tranh
chấp lao động là công cụ pháp lí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ và
NSDLĐ, góp phần duy trì, ổn định quan hệ lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về tranh chấp lao động tập thể và
giải quyết tranh chấp lao động tâp thể khi thực thi trên thực tế vẫn còn nhiều
vướng mắc.
II – NỘI DUNG
Sau hơn 10 năm
thực hiện Bộ luật lao động, cùng với đó là việc Nhà nước thừa nhận quyền đình
công của những người lao động, đã có hàng ngàn vụ tranh chấp lao động và cuộc
đình công xảy ra trên khắp lãnh thổ VN. Con số này chắc chắn sẽ khiến nhiều
người giật mình bởi trong tiềm thức của không ít người, tranh chấp lao động và
đình công vẫn luôn bị coi là “mặt trái” của nền kinh tế thị trường và để lại
những hậu quả bất ổn về chính trị, kinh tế, xã hội. Đáng ngại hơn là với số
lượng lớn các cuộc đình công đã và đang xảy ra, không có một cuộc đình công nào
hợp pháp, cũng như không có một cuộc đình công nào được giải quyết theo
đúng thủ tục luật định. Nguyên nhân của vấn đề này là do ý thức chấp hành pháp
luật kém của các bên trong quan hệ lao động hay do bản thân các quy định về
giải quyết tranh chấp lao động và đình công còn nhiều bất cập và phải được xem
xét lại? Nhằm tìm hiểu vấn đề này dưới góc độ đánh giá tính khả thi của hệ thống pháp
luật hiện hành về TCLĐTT, em xin đưa ra một vài nhận xét sau.
1. Về khái niệm tranh chấp lao động tập thể.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2007 đã
đưa ra khái niệm tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể về
quyền, tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Vấn đề là với cách định nghĩa
TCLĐTT (tại Điều 157) , trong thực tế có thể phân biệt TCLĐ cá nhân và TCLĐTT
được hay chưa? Để có cơ chế giải quyết thích hợp, bảo vệ quyền và lợi
ích cho các bên trong quan hệ lao động thì phải xác định được tranh chấp lao động
xảy ra là tranh chấp lao đông cá nhân hay tranh chấp lao động tập thể. Nhưng
trong thực tế đã có rất nhiều tranh chấp xảy ra rất khó xác định được là tranh
chấp lao động cá nhân hay tranh chấp lao động tập thể, vì hiện nay pháp luật
lao động chưa có khái niệm chuẩn vè “tập
thể lao động” hiểu theo số lượng người lao động tham gia tranh chấp hay
theo nhóm người lao động có cùng nội dung tranh chấp, hoặc có đại diện công đoàn
tham gia.
Theo quy định của pháp luật lao động, đây là hai loại
tranh chấp có thủ tục giải quyết rất khác nhau. Nếu không có sự
phân biệt chính xác ngay từ thời điểm nhận dạng tranh chấp lao động, rất có thể
dẫn đến sự rắc rối khi xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
cũng như thủ tục tố tụng tiếp theo.
Trong Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2007, khái niệm “tranh chấp lao động tập thể” và liên quan đến nó là khái niệm “tập thể lao động” được xác định rất
chung chung, gây khó khăn cho việc áp dụng luật trong thực tiễn. lTheo Điều
157, tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp “giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động”; còn tập thể lao
động là “những người lao động cùng làm
việc trong một doanh nghiệp hoặc một bộ phận của doanh nghiệp”. Trong thực
tế, có nhiều vụ tranh chấp xảy ra giữa một số người lao động (một nhóm người
lao động) với người sử dụng lao động, nhưng giữa họ không có sự liên kết với
nhau, mỗi cá nhân NLĐ có thể có những yêu cầu khác nhau với NSDLD. Hoặc có
những TCLĐ xảy ra giữa nhiều NLĐ tại một doanh nghiệp, nhưng lại không được sự
ủng hộ hoặc tham gia của cán bộ Công đoàn cơ sở (dù tại đó có thể có tổ chức
Công đoàn)… Vấn đề là những tranh chấp đó có thể coi là TCLĐTT hay không?
Hiện có rất
nhiều quan điểm khác nhau về việc nhận dạng tranh chấp lao động tập thể. Tuy
nhiên quan điểm có nhiều yếu tố hợp lý và được sự nhất trí của nhiều nhà khoa
học là quan điểm cho rằng để được coi là tranh chấp lao động tập thể phải
thoả mãn ít nhất các dấu hiệu sau đây:
- Có sự tham gia
của nhiều người lao động (số lượng người lao động có thể tính theo tỷ lệ hợp lý
tại đơn vị sử dụng lao động đó);
- Có sự liên kết
giữa những người lao động ;
- Có những yêu
cầu chung với NSDLD (đó cũng là nguyên nhân phát sinh bất đồng giữa các bên
trong TCLĐTT).
Với những dấu
hiệu nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về tranh chấp lao động tập thể
như sau: “tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp giữa tập thể lao
động với NSDLD vì những quyền và lợi ích chung của tập thể lao động”. Khái
niệm tập thể lao động cũng có thể được định nghĩa lại như sau: “tập thể
lao động là nhiều người lao động cùng làm việc trong một doanh nghiệp hoặc
trong một bộ phận doanh nghiệp mà giữa họ có sự liên kết với nhau hành
động vì lợi ích chung”
Với hai khái
niệm được sửa đổi như trên, có thể phân biệt TCLĐCN và TCLĐTT ở những
trường hợp phổ biến, thường
gặp trong thực tiễn. Đối với những trường hợp tương đối cá biệt, có thể vận dụng linh hoạt
các quy định của pháp luật trong từng tình huống cụ thể.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CHI NHÁNH CÔNG TY
2. Về cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể.
a,
Hội đồng hòa giải lao động cơ sở và Hòa giải viên lao động.
Hòa giải là một
yêu cầu khách quan và cần thiết cho quà trình giải quyết TCLĐ. Qua thực tiễn,
nó đã khẳng định được vai trò to lớn của mình đối với hoạt động giải quyết TCLĐ.
Hội đồng hòa giải cơ sở hoặc hòa giải viên lao động là các chủ thể đầu tiên có
thẩm quyền giải quyết TCLĐTT. Tuy nhiên với những quy định hiện hành của pháp
luật, liệu các chủ thể đó có thực hiện tốt chức năng của mình được hay không? Trong các quy định về thẩm quyền
kí quyết định thành lập Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, theo mục 1 phần I
Thông tư số 22/ 2007/TT – LĐTBXH ngày 23 tháng 10 năm 2007 quy định: “Người sử dụng lao động hoặc Chủ tịch công
đoàn cơ sở chủ động đề xuất việc thành lập hội đồng hòa giải lao động cơ sở để
người sử dụng lao động ra quyết định thành lập hội đồng hòa giải lao động cơ sở”.
Quy định này là chưa hợp lí. Tao ra sự
bất bình đẳng ở chỗ: NSDLĐ hoặc đại diện của họ cũng là một bên trong hội đồng
hòa giải, họ bình đẳng với NLĐ về quyền lợi và số lượng thành viên. Mặt khác,
khi quy định như vậy, hội đồng hòa giải lao động cơ sở có đươc thành lập hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào í chí của NSDLĐ. Họ sẽ không kí quyết định thành
lập hội đồng hòa giải nếu thấy bất lợi cho mình. Do vậy, để đảm bảo tính khách
quan công bằng và đảm bảo cho việc thành lập hội đồng hòa giải lao động cơ sở
trong trường hợp cần thiết thì nên quy định cho Sở Lao động Thương binh và xã
hội, cụ thể là giám đốc sở có quyền thành lập hội đồng hòa giải lao động cơ sở.
Hơn nữa, thành viên của Hội đồng hòa giải lao động
cơ sở thực chất chính là những thành viên mà hai bên tranh chấp cử ra, NSDLĐ
bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động của Hội đồng hòa giải lao động cơ sở.
Trong khi đó, bản chất của hòa giải là có sự tham gia của bên thứ ba độc lập để
tìm cách đưa hai bên có thể đạt đến sự thỏa thuận. Chính vì vậy, quy định về
Hội đồng hòa giải lao động cơ sở của pháp luật hiện hành là không phù hợp, làm
mất đi bản chất của phương pháp giải quyết qua hòa giải, khiến cho việc hòa
giải không khác gì với tự thương lượng với các bên. Quy định tại NĐ
133/2007/NĐ-CP có hướng mở rộng thành viên của Hội đồng hòa giải cơ sở nhưng
trên thực tế những “chuyên gia ngoài
doanh ngiệp” này thường ít được sự thỏa thuận đồng ý chấp thuận từ phía
NSDLĐ vì họ không muốn có sự can thiệp của người ngoài vào công việc của mình.
Chính vì vậy mà hoạt động hòa giải của Hội đồng hòa giải lao động cơ sở cũng
chưa được cao. Nên chăng pháp luật nên quy định bãi bỏ thẩm quyền của Hội đồng
hòa giải lao động cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể và
quy định cho hòa giải viên lao động sẽ là người tiến hành hòa giải tranh chấp
lao động tập thể cả về quyền và lợi ích. Hòa giải viên lao động là đại diện thứ
ba từ phía cơ quan nhà nước sẽ là chủ thể tiến hành hòa giải tại cơ sở khi có
yêu cầu của các bên tranh chấp sẽ bảo đảm tính khách quan và đạt hiệu quả cao
hơn sơ với Hội đông hòa giải lao động cơ sở trong việc hòa giải TCLĐTT.
b,
Chủ tịch UBND cấp huyện.
Việc có sự tham gia của Chủ tịch UBND cấp huyện với
vai trò là sự góp mặt của cơ quan Nhà nước vào quá trình giải quyết TCLĐTT sẽ
tạo tính khách quan cho quá trình giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một vấn đề
được đặt ra ở đây là: Chủ tịch UBND cấp huyện là người quản lý chung mọi mặt
của địa phương mình, liệu Chủ tịch UBND cấp huyện có đủ thời gian và chuyên môn
trong lĩnh vực lao động? Mặt khác, quyết định xử phạt hành chính với bên có
hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch UBND cấp huyện với tư cách là quyết định
giải quyết tranh chấp như hiện nay sẽ không đảm bảo được việc giải quyết tốt nhất
TCLĐ phát sinh.
c, Tòa án nhân
dân.
Việc giải quyết
TCLĐTT tại tòa án nhân dân là phương thức giải quyết cuối cùng và quyết định
giải quyết có hiệu lực pháp lí cao hơn cả bởi Tòa án là cơ quan đại diện cho
quyền lực Nhà nước và kết quả giải quyết có tính cưỡng chế thi hành. Tuy nhiên,
tính hệu quả của giải quyết TCLĐTT tại Tòa án là chưa cao. Theo quy định hiện
hành, việc tiến hành xét xử vụ án lao động tại TAND thông qua hai cấp: sơ thẩm
và phúc thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm một thẩm phán và hai hội thẩm
nhân dân; trường hợp đặc biệt là hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Thẩm phán là đại diện của Nhà nước còn hội thẩm nhân dân chưa có
quy định cụ thể. Do đó, cần phải ngiên cứu và xây dưng một mô hình tòa án với
Hội đồng xét xử có sự tham gia của đại diện ba bên gồm: đại diện Nhà nước, đại
diện NSDLĐ và đại diện NLĐ để giải quyết TCLĐ TT.
Trong
dự thảo BLLĐ (sửa đổi) đã đưa ra quy định về thẩm quyền giải quyết TCLĐTT về
quyền của tòa án sẽ do “Tòa lao động Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương” giải quyết. Đây là bước nhìn nhận đúng đắn, góp phần nâng ao
hiệu quả trong việc giải quyết các vụ TCLĐ trên thực tế.
d,
Hội đồng trọng tài lao động.
Hội
đồng trọng tài là chủ thể có quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về
lợi ích. Tuy nhiên, hoạt động của Hội đồng trọng tài theo quy định của BLLĐ
hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Do tổ chức này chỉ có quyền tiến
hành hòa giải các TCLĐTT trong phạm vi
thẩm quyền của mình mà không có thẩm quyền ra quyết định về vụ tranh chấp nên
Hội đồng trọng tài mang tính chất giống với Hội đồng hòa giải lao động cơ sở.
Cùng với quy định trình tự giải quyết TCLĐTT về lợi ích phải đi từ quá trình
thương lượng giữa hai bên tranh chấp sang hòa giải viên lao động rồi lại tiếp
tục hòa giải tại Hôi đồng trọng tài. Đây là trình tự giải quyết tranh chấp vòng
vo, nhều bước mà vẫn không giải quyết tranh chấp bằng một phán quyết cụ thể
khiến việc giải quyết tranh chấp lao động thiếu tính hiệu quả. Chính vì vậy cần
phải tạo cơ chế để Hội đồng trọng tài được ra phán quyết về vụ tranh chấp, đồng
thời phải bảo đảm cho phán quyết của Hội đồng trọng tài được thi hành trên thực
tế. Có như vậy mới bảo đảm được chức năng vốn có của trọng tài và việc sử dụng
phương thức này mới thực sự có hiệu quả trong thực tế.
3.
Về thủ tục giải quyết
tranh chấp lao động tập thể..
Thứ nhất, về thủ
tục hòa giải tại Hội đồng cơ sở hiện nay còn gặp
nhiều vướng mắc. Việc giữ nguyên các quy định về hoà giải tại Hội đồng hoà giải
lao động cơ sở như
hiện nay sẽ phát sinh những rắc rối khi một trong hai bên hoặc cả hai bên
không tự giác thi hành thoả thuận trong Biên bản hoà giải thành. Khi đó, tranh
chấp lao động sẽ rơi vào bế tắc do không thể tìm ra cách giải quyết vì Biên bản
hoà giải thành không được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành. Nên
chăng, có thể cho phép các chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận
Biên bản hoà giải thành. Nhờ đó, biên bản này sẽ được đảm bảo thực hiện bằng
các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Có như vậy mới tránh được những tr ờng hợp
rắc rối nêu trên.
Điều này cũng
xảy ra tương tự với biên bản hoà giải thành do HĐTTLĐ tỉnh xác lập khi giải
quyết các TCLĐTT về lợi ích . Giả định, sau khi đã có biên bản hoà giải thành
của HĐTTLĐ cấp tỉnh về việc giải quyết TCLĐTT về lợi ích nhưng sau đó các bên
không đồng ý với biên bản đó, hoặc một trong hai bên tranh chấp cố ý không thực
hiện thoả thuận trong biên bản hoà giải thành thì phải giải quyết TCTT đó
như thế nào?
Đối với tập thể
lao động, họ có thể tìm đến phương án đình công. Nhưng đối với NSDLD thì không
còn cách nào khác. Giải pháp duy nhất mà NSDLD có thể lựa chọn khi không tán
thành với biên bản hoà giải thành tại HĐTTLĐ cấp tỉnh là không thực hiện. Lúc
này, vấn đề được đặt ra là làm thế nào để đảm bảo tính cưỡng chế thi hành của
biên bản hoà giải thành được xác lập tại Hội đồng trọng tài lao động tỉnh khi
các bên không tiếp tục có quyền khởi kiện ra Toà án.
Theo em, giải
pháp cho tình trạng này cũng là cho phép các bên có quyền khởi kiện yêu cầu
công nhận biên bản hoà giải thành của Hội đồng trọng tài lao động là hợp pháp.
Sau khi đã được TA công nhận tính hợp pháp, biên bản này sẽ được đảm bảo thi
hành bằng các biện pháp cưỡng
chế nhà nước.
Thứ hai, về phương án hòa giải: Theo quy định tại khoản 2 Đièu
165a BLLĐ đã sửa đổi bổ sung: “Hội đồng hòa
giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động đưa ra phương án hòa giải để
hai bên xem xét. Trường hợp hai bên chấp nhận phương án hòa giải thig Hôi đồng
hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao đọng lập biên bản hòa giải
thành, có chữ kí của hai bên tranh chấp, của Chủ tịch và Thư kí Hội đồng hòa
giải lao động cơ sở hoặc của hòa giải viên lao động…. Trường hợp hai bên không
chấp nhận phương án hòa giải hoặc một bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lí do chính đáng thì Hội đồng hòa giải
cơ sở hoặc hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải không thành có chữ ký
của bên tranh chấp có mặt, của Chủ tịch và Thư kí Hội đồng hòa giải lao động cơ
sở hoặc hòa giải viên lao động”. Quy định này tạo ra hai vướng mắc: một là,
trong trường hợp các bên không chấp nhận phương án hòa giải của Hội đồng hòa
giải lao động cơ sở đưa ra nhưng lại thỏa thuận được với nhau về một phương án
hòa giải khác thì có chấp nhận và lập biên bản hòa giải thành hay không? Hai
là, nếu trong quá trình hòa giải, các bên chỉ thỏa thuận được một hoặc một số
nội dung tranh chấp thì lập biên bẩn hòa giải như thế nào?
Để tôn trọng sự thỏa thuận, quyền tự định đoạt của
các bên tranh chấp, trong trường hợp các bên đạt được sự thỏa thuận chung về
phương án hòa giải khác thì ta nên chấp nhận và lập biên bản hòa giải thành.
Còn trong trường hợp các bên chỉ thỏa thuận được một hoặc một số nội dung tranh
chấp thì vẫn sẽ lập biên bản hòa giải không thành trong đó ghi những nội dung
thỏa thuận đã đạt được và những nội dung tranh chấp chưa được giải quyết để làm
căn cứ và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp tiếp
theo. Như vậy, nên sửa lại khoản 2 Điều 165a BLLĐ như sau: “Hội đồng hòa giải lao động cơ sở đưa ra
phương án hòa giải để các bên xem xét. Nếu hai bên chấp nhận phương án hòa giải
hoặc đạt được sự thỏa thuận chung về phương án hòa giải khác thì lập biên bản
hòa giải thành. Trong trường hợp các bên không đạt được sư thỏa thuận giải
quyết dứt điểm vụ tranh chấp thì Hội đồng hòa giải lao động cơ sở lập biên bản
hòa giải không thành, trong đó ghi rõ nội dung đã thỏa thuận được (nếu có) và
nội dung còn tranh chấp…”
III – KẾT LUẬN
Để đảm bảo cho
những quy định của BLLĐ sửa đổi bổ sung năm 2007 nói chung và các quy định về tranh chấp lao
động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động tập thể nói riêng thực sự đi vào
cuộc sống, cần có sự sửa đổi đồng bộ các nội dung về khái niệm tranh chấp lao
động, chủ thể tiến hành giải quyết tranh chấp, thủ tục giải quyết tranh chấp
lao động… Bên cạnh đó, cần nâng cao hiểu biết và ý thức pháp luật của các bên
trong quan hệ lao động. Việc hoàn thiện pháp luật lao động ngày càng sát với
thực tế đời sống là yêu cầu bức thiết đối với các nhà làm luật để nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật lao động trong thực tiễn
PHẦN B – BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
1. Bình
luận về kết luận và yêu cầu của thanh tra lao động thành phố H đối với công ty
X.
Kết
luận và yêu cầu của thanh tra thành phố X với công ty H là đúng, bởi:
Theo quy
định tại Điều 26 Bộ luật
Lao động thì: “Hợp đồng lao động là sự
thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả
công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”.
Tuy nhiên hợp đồng phải được giao kết
theo một trong các loại sau đây: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Hợp
đồng lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba năm. Hợp đồng lao động theo
mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm.
Không được giao kết hợp đồng lao động
theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới một năm để làm
những công việc có tính chất thường xuyên từ một năm trở lên, trừ trường hợp
phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ
thai sản hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác (Điều 27 Bộ luật Lao động).
Khoản 1, 2 Điều 4 Nghị định số
44/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động, việc áp
dụng loại hợp đồng lao động quy định tại Điều 27 của Bộ luật Lao động đã sửa
đổi, bổ sung được quy định như sau: “1. Hợp
đồng lao động không xác định thời hạn áp dụng cho những công việc không xác
định được thời điểm kết thúc hoặc những công việc có thời hạn trên 36 tháng. 2
Hợp đồng lao động xác định thời hạn áp dụng cho những công việc xác định được
thời điểm kết thúc trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng”.
Trong tình huống này, Trần Kiên đã
được nhận vào làm việc tại công ty TNHH X có trụ sở làm việc, công việc là nhân
viên Phòng Hành chính – Nhân sự. Công việc này là một công việc mang tính chất
thường xuyênn chứ không phải công việc theo mùa vụ. Nhưng công ty X chỉ kí với
Trần Kiên hợp đồng lao động có thời hạn 6 tháng.
Mặt khác, tại khoản 3 Điều 27 BLLĐ
cũng đã quy định: “Không được giao kết
hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn
dưới một năm để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ một năm trở
lên”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc
kí hợp đồng lao động của công ty X với Trần Kiên là trái với pháp luật. Đúng
ra, công ty X sẽ phải kí hợp đồng không xác định thời hạn hoặc hợp đồng có thời
hạn từ 12 tháng đến 36 tháng với Trần Kiên chứ không phải là hợp đồng có thời hạn 6 tháng.
Ở tình huống bài cho không nói rõ
Trần Kiên được nhận vào làm việc tại công ty X có phải với một trong các lý do
là: tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ
thai sản hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác hay không. Nếu Trần Kiên
được tuyển vào công ty X làm việc vì một trong những lí do trên thì việc kí hợp
đồng của công ty X với Trần Kiên là hoàn toàn đúng pháp luật. Vì ở khoản 3 Điều
27 BLLĐ có quy định cho NSDLĐ vẫn sẽ được kí hợp đồng lao động với người lao
động một hợp đồng lao động dưới 12 tháng đối với các công việc có tính chất
thường xuyên trong các trường hợp tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa
vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời
khác.
Như vậy, nếu trường hợp công ty X kí
hợp đồng lao động với Trần Kiên vì những lí do đã nêu ở trên thì kết luận và
yêu cầu của thanh tra lao động thành phố
H là sai. Còn nếu công ty X kí hợp đồng với Trần Kiên không phải vì lí do trên
thì kết luận và yêu cầu của thanh ttra lao động thành phố H là hoàn toàn đúng
đắn.
2. Nếu công ty không khắc phục sai
sót theo yêu cầu của thanh tra lao động thì công ty sẽ bị xử lí vi phạm hành
chính như thế nào.
Ở
đây, ta xét trong
trường hợp việc công ty X kí hợp đồng với Trần Kiên là trái pháp luật.
Theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 8 Nghị định 47/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định
xử phạt hành chính về hành vi vi phạm
pháp luật lao động thì: “2. Phạt tiền
người sử dụng lao động có một trong những hành vi vi phạm sau: không ký kết hợp
đồng lao động đối với những trường hợp người sử dụng lao động phải ký kết hợp
đồng lao động với người lao động; giao kết hợp đồng lao động không đúng loại;
hợp đồng lao động không có chữ ký của một trong hai bên, theo một trong các mức
sau đây:
a)
Từ 200.000
đồng đến 1.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 01 người đến 10 người lao động;”
Ngoài ra,
công ty X phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tiến hành giao kết đúng
loại hợp đồng theo quy định của pháp luật như quy định tại điểm b khoản 5 Điều
8 Nghị định 47/2010/NĐ-CP.
Hơn nữa, tại Điều 23 Nghị định 47/2010/NĐ-CP
cũng quy định về thẩm quyền xử phạt của Thanh tra chuyên nghành về lao động: “1. Thanh tra viên lao động đang thi hành
công vụ có quyền: …b, Phạt tiền đến 500.000 đồng…d, Áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả theo quy định tại điểm a, b, c và d khoản 3 Điều 4 Nghị định này”. Tức là
Thanh tra viên lao động khi thi hành công vụ có quyền phạt tiền đến 500.000
đồng và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc doanh nghiệp phải thực hiệ
đúng các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng
Trong tình huống nay công ty X sẽ bị
xử phạt hành chính vì đã kí sai loại hợp đồng với Trần Kiên và buộc công ty X
phải thực hiện đúng các quy định pháp luật về việc giao kết hợp đồng với Trần
Kiên. Thanh tra viên lao động của thành phố
H hoàn toàn có đủ thẩm quyền để xử phạt vi phạm hành chính đối với công
ty X trong trường hợp này.
3. Nếu là Trần
Kiên, hãy đưa ra cơ sở cho yêu cầu của mình. Yêu cầu của Trần kiên sẽ được giải
quyết như thế nào?
Giả sử hợp đồng lao động giữa công
ty và Trần Kiên được thực hiện một cách bình thường cho đến khi hết hạn. Công ty làm thủ tục chấm
dứt hợp đồng lao động theo khoản 1 Điều 36 BLLĐ. Trần Kiên cho rằng việc chấm
dứt hợp đồng của công ty đối với mình là trái pháp luật và đã làm đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp để trở lại làm việc và được công ty bồi thường thiệt hại.
a, Cơ sở cho yêu cầu của Trần Kiên.
Thứ nhất, công
việc mà Trần Kiên được nhận vào làm ở công ty X là công việc trong phòng Hành
chính – Nhân sự. Đây là công việc có tính chất thường xuyên. Theo quy định tại
khoản 1, 2 Điều 4 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm
2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật Lao động về hợp đồng lao động, việc áp dụng loại hợp đồng lao động quy
định tại Điều 27 của Bộ luật Lao động đã sửa đổi, bổ sung được quy định như
sau: “1. Hợp đồng lao động không xác định
thời hạn áp dụng cho những công việc không xác định được thời điểm kết thúc
hoặc những công việc có thời hạn trên 36 tháng;
2 .Hợp đồng lao động xác định thời hạn áp dụng cho những công việc xác
định được thời điểm kết thúc trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến đủ 36
tháng”. Như vậy, với công việc của Trần Kiên thì anh phải được kí hợp đồng
không xác định thời hạn với công ty X hoặc không thì cũng phải được kí hợp đồng
có thời hạn từ 12 đến 36 tháng.
Thứ hai, công ty X chỉ kí hợp đồng có thời
hạn 6 tháng với Trần Kiên. Mà công việc của Trần Kiên theo đúng với quy định
của LLĐ thì phải kí hợp đồng không xác định thời hạn. Như vậy, việc kí kết hợp
đồng giữa Trần Kiên và công ty X là trái với pháp luật.
Qua phân tích trên có thể thấy: yêu
cầu được trở lại làm việc và được công ty bồi thường thiệt hại của Trần Kiên là
hoàn toàn có cơ sở.
b, Yêu cầu của Trần Kiên sẽ được giải
quyết như sau:
Công ty X sẽ phải kí lại với Trần
Kiên bản hợp đồng mới không xác định thời hạn hoặc bản hợp đồng có thời hạn từ
12 đến 36 tháng. Như vậy tức là công ty sẽ phải hủy bỏ quyết định cho thôi việc
đối với Trần Kiên và nhận Trần Kiên trở lại làm việc. Thời gian mà Trần Kiên đã
làm việc trước đó có thể được trừ vào thời hạn của bản hợp đồng mới nếu công ty
X kí với Trần Kiên hợp đồng xác định thời hạn 12 đến 36 tháng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét