Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

Thẩm quyền của tổ chức công đoàn trong lĩnh vực lao động.

BÀI LÀM
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động. Quyền hạn của công đoàn là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của công đoàn được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện với tư cách là một chủ thể độc lập đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động. Theo pháp luật hiện hành, trong lĩnh vực lao động, công đoàn có một số thẩm quyền sau:
1. Thẩm quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động.
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có quyền trình dự án luật ra Quốc hội, tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động, tham gia hướng dẫn việc thực hiện những văn bản pháp quy về lao động có liên quan và trong phạm vi được Nhà nước giao.
Liên đoàn lao động địa phương tham gia ý kiến với chính quyền cùng cấp về những vấn đề quản lý lao động tại địa phương, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản pháp luật lao động. Công đoàn ngành đi sâu vào việc quản lý kinh tế kỹ thuật trong ngành, tham gia xây dựng và thực hiện các chế độ chính sách về lao động, tiền lương, tiền thưởng, về đào tạo, quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ kỹ thuật của ngành.
2. Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động.
Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động được thực hiện trong phạm vi rộng rãi với hình thức đa dạng. Nó bao gồm tất cả các lĩnh vực trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới quan hệ lao động, bao gồm tất cả các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp… có thuê mướn, sử dụng lao động. Về hình thức thực hiện, công đoàn có thể tự mình tổ chức việc kiểm tra, giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan. Ngoài ra, người sử dụng lao động phải tạo điều kiện thuận lợi cho quyền kiểm tra, giám sát của công đoàn được thực hiện.
3. Quyền đại diện cho tập thể lao động kí kết thỏa ước lao động tập thể.
Nhà nước, bằng công cụ pháp luật để cho công đoàn đại diện cho người lao động trong việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với tổ chức rộng rãi nhất của giai cấp công nhân và những người lao động. Với quy định đó Nhà nước không chỉ tạo điều kiện để công đoàn thực hiện chức năng cơ bản nhất là bảo vệ người lao động, mà còn là một phương pháp pháp lý hữu hiệu để công đoàn tham gia có hiệu quả và việc quản lý doanh nghiệp, điều hòa quyền lợi, ngăn ngừa xung đột. Đối với tổ chức công đoàn, việc pháp luật lao động quy định sự tham gia của công đoàn vào việc ký kết thỏa ước lao động tập thể cho thấy vai trò và trách nhiệm của công đoàn rất to lớn trong việc tham gia có hiệu quả vào quản lý doanh nghiệp, và đặc biệt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
4. Quyền tham gia xây dựng nội quy lao động, xử lí kỉ luật lao động, trách nhiệm vật chất và chấm dứt hợp đồng lao động.
Việc tham gia của công đoàn vào quá trình xây dựng nội quy lao động không chỉ là sự đảm bảo cho tính hợp lý và đúng đắn của các quy định nội bộ trong doanh nghiệp mà còn bảo đảm cho tính khả thi cũng như hiệu quả của quá trình quản lý lao động.
Khi người lao động vi phạm kỷ luật việc áp dụng hình thức kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất là quyền của người sử dụng lao động, nó là hậu quả pháp lý bất lợi cho người lao động cả về việc làm, thu nhập, nhân phẩm do vậy việc quy định có sự tham gia của đại diện ban chấp hành công đoàn là hợp lý
Chấm dứt hợp đồng lao động là một điều khá phổ biến trong quan hệ lao động, tuy nhiên khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động thì cần phải có sự thống nhất với ban chấp hành công đoàn cơ sở trước khi chấm dứt.
5. Quyền tổ chức và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
Công đoàn có quyền và trách nhiệm nắm vững hoàn cảnh kinh tế gia đình của các thành viên tổ chức mình trong doanh nghiệp để từ đó có biện pháp giúp đỡ về tinh thần và vật chất. Công đoàn cơ sở cùng với người sử dụng lao động chăm lo đến đời sống văn hóa, hoạt động thể dục, thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch... cho người lao động, nhất là vấn đề tạo nguồn kinh phí và sắp xếp thời gian cho mọi người lao động hàng năm đều được hưởng các quyền này.
Công đoàn phối hợp với người sử dụng lao động trong việc sử dụng quỹ phúc lợi tập thể của đơn vị được thực hiện công khai và dân chủ trong việc cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Trong những trường hợp nhất định công đoàn trong các doanh nghiệp Nhà nước còn có quyền kiểm tra hoặc đình chỉ việc sử dụng quỹ này nếu thấy việc sử dụng quỹ sai mục đích hoặc không đúng với nghị quyết của hội nghị công nhân viên chức.
6. Quyền đại diện và tham gia trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp lao động và các cuộc đình công.
Thứ nhất, quyền tổ chức đối thoại giữa lao động tập thể với người sử dụng lao động. Xuất phát từ các quan hệ lao động, giữa lao động tập thể và người sử dụng lao động có thể xuất hiện các mâu thuẫn do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu không giải quyết kịp thời sẽ dẫn tới những xung đột. Do vậy khi cần thiết, Công đoàn tổ chức đối thoại giữa tập thể lao động với thủ trưởng các cơ quan đơn vị, tổ chức hữu quan để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động
Thứ hai, quyền tham gia giải quyết tranh chấp lao động. Sự tham gia của Công đoàn ở đây được hiểu là sự tham gia với tư cách là một chủ thể, một thành viên độc lập trực tiếp giải quyết tranh chấp lao động. Về nguyên tắc, tất cả các cơ quan, tổ chức này khi giải quyết tranh chấp lao động phải có sự tham gia của Công đoàn với tư cách là một thành viên có địa vị pháp lý như các thành viên khác trong hội đồng giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên ở Việt Nam thì điều này mới được quy định.
Thứ ba, quyền tổ chức và lãnh đạo. Theo quy định tại Điều 172a Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung thì nói chung việc đình công do Ban chấp hành công đoàn tổ chức và lãnh đạo. Quy định này vừa khẳng định tính đại diện duy nhất của Công đoàn trong lãnh đạo đình công, vừa xác định trách nhiệm của Công đoàn nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các cuộc đình công.
Thứ tư, quyền khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động. Thông thường quyền khởi kiện để bảo vệ tập thể lao động do Công đoàn cơ sở thực hiện; tuy nhiên, Công đoàn cấp trên của Công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.
Kết luận: Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, công đoàn có quyền hạn lớn, được ghi nhận trên nhiều phương diện của quan hệ lao động. Tuy có nhiều quyền hạn, nhưng hiệu quả hoạt động của công đoàn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, đặc biệt từ sự nỗ lực về mọi mặt của chính tổ chức công đoàn.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét