BÀI LÀM
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của
giai cấp công nhân và của người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động)
tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt
Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam; là trường học
chủ nghĩa xã hội của người lao động. Quyền hạn của công đoàn là
tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của công đoàn được pháp luật thừa nhận và bảo
đảm thực hiện với tư cách là một chủ thể độc lập đại diện để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của tập thể lao động. Theo pháp luật hiện hành, trong
lĩnh vực lao động, công đoàn có một số thẩm quyền sau:
1. Thẩm quyền tham gia với cơ
quan nhà nước và đại diện người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan
hệ lao động.
Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam có quyền trình dự án luật ra Quốc hội, tham gia
kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động, tham gia
hướng dẫn việc thực hiện những văn bản pháp quy về lao động có liên quan và
trong phạm vi được Nhà nước giao.
Liên đoàn
lao động địa phương tham gia ý kiến với chính quyền cùng cấp về những vấn đề
quản lý lao động tại địa phương, tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
văn bản pháp luật lao động. Công đoàn ngành đi sâu vào việc quản lý kinh tế kỹ
thuật trong ngành, tham gia xây dựng và thực hiện các chế độ chính sách về lao
động, tiền lương, tiền thưởng, về đào tạo, quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán
bộ kỹ thuật của ngành.
XEM THÊM: THỦ TỤC GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
2. Quyền tham gia
kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động.
Quyền tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các
quy định của pháp luật lao động được thực hiện trong phạm vi rộng rãi với hình
thức đa dạng. Nó bao gồm tất cả các lĩnh vực trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan tới quan hệ lao động, bao
gồm tất cả các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp… có thuê mướn, sử dụng lao động. Về
hình thức thực hiện, công đoàn có thể tự mình tổ chức việc kiểm tra, giám sát
hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan. Ngoài ra, người sử dụng lao động phải
tạo điều kiện thuận lợi cho quyền kiểm tra, giám sát của công đoàn được thực
hiện.
3. Quyền đại diện cho tập thể
lao động kí kết thỏa ước lao động tập thể.
Nhà
nước, bằng công cụ pháp luật để cho công đoàn đại diện cho người lao động trong
việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, thể hiện sự tôn trọng của Nhà
nước đối với tổ chức rộng rãi nhất của giai cấp công nhân và những người lao
động. Với quy định đó Nhà nước không chỉ tạo điều kiện để công đoàn thực hiện
chức năng cơ bản nhất là bảo vệ người lao động, mà còn là một phương pháp pháp
lý hữu hiệu để công đoàn tham gia có hiệu quả và việc quản lý doanh nghiệp,
điều hòa quyền lợi, ngăn ngừa xung đột. Đối với tổ chức công đoàn, việc pháp
luật lao động quy định sự tham gia của công đoàn vào việc ký kết thỏa ước lao
động tập thể cho thấy vai trò và trách nhiệm của công đoàn rất to lớn trong
việc tham gia có hiệu quả vào quản lý doanh nghiệp, và đặc biệt trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
4. Quyền tham gia
xây dựng nội quy lao động, xử lí kỉ luật lao động, trách nhiệm vật chất và chấm
dứt hợp đồng lao động.
Việc tham gia của công đoàn vào quá trình xây dựng nội
quy lao động không chỉ là sự đảm bảo cho tính hợp lý và đúng đắn của các quy
định nội bộ trong doanh nghiệp mà còn bảo đảm cho tính khả thi cũng như hiệu
quả của quá trình quản lý lao động.
Khi người lao động vi phạm kỷ luật việc áp dụng hình
thức kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất là quyền của người sử dụng lao
động, nó là hậu quả pháp lý bất lợi cho người lao động cả về việc làm, thu
nhập, nhân phẩm do vậy việc quy định có sự tham gia của đại diện ban chấp hành
công đoàn là hợp lý
Chấm dứt hợp đồng lao động là một điều khá phổ biến
trong quan hệ lao động, tuy nhiên khi người sử dụng lao động đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động với người lao động thì cần phải có sự thống nhất với ban
chấp hành công đoàn cơ sở trước khi chấm dứt.
5. Quyền tổ chức
và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
Công
đoàn có quyền và trách nhiệm nắm vững hoàn cảnh kinh tế gia đình của các thành
viên tổ chức mình trong doanh nghiệp để từ đó có biện pháp giúp đỡ về tinh thần
và vật chất. Công đoàn cơ sở cùng với người sử dụng lao động chăm lo đến đời
sống văn hóa, hoạt động thể dục, thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch... cho
người lao động, nhất là vấn đề tạo nguồn kinh phí và sắp xếp thời gian cho mọi
người lao động hàng năm đều được hưởng các quyền này.
Công
đoàn phối hợp với người sử dụng lao động trong việc sử dụng quỹ phúc lợi tập
thể của đơn vị được thực hiện công khai và dân chủ trong việc cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Trong những
trường hợp nhất định công đoàn trong các doanh nghiệp Nhà nước còn có quyền
kiểm tra hoặc đình chỉ việc sử dụng quỹ này nếu thấy việc sử dụng quỹ sai mục
đích hoặc không đúng với nghị quyết của hội nghị công nhân viên chức.
6. Quyền đại diện và tham gia
trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp lao động và các cuộc đình công.
Thứ
nhất, quyền tổ chức đối thoại giữa lao động tập thể
với người sử dụng lao động. Xuất
phát từ các quan hệ lao động, giữa lao động tập thể và người sử dụng lao động
có thể xuất hiện các mâu thuẫn do nhiều nguyên nhân khác nhau, nếu không giải
quyết kịp thời sẽ dẫn tới những xung đột. Do vậy
khi cần thiết, Công đoàn tổ chức đối thoại giữa tập thể lao động với
thủ trưởng các cơ quan đơn vị, tổ chức hữu quan để giải quyết các vấn đề liên
quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người lao động
Thứ hai, quyền tham gia giải quyết tranh chấp lao động. Sự tham gia của Công đoàn ở đây được hiểu là sự tham
gia với tư cách là một chủ thể, một thành viên độc lập trực tiếp giải quyết
tranh chấp lao động. Về nguyên tắc, tất cả các cơ quan, tổ chức này khi giải
quyết tranh chấp lao động phải có sự tham gia của Công đoàn với tư cách là một
thành viên có địa vị pháp lý như các thành viên khác trong hội đồng giải quyết
tranh chấp. Tuy nhiên ở Việt Nam thì điều này mới được quy định.
Thứ ba, quyền tổ chức và lãnh đạo. Theo quy định tại
Điều 172a Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung thì nói chung việc đình công do Ban
chấp hành công đoàn tổ chức và lãnh đạo. Quy định này vừa khẳng định tính đại
diện duy nhất của Công đoàn trong lãnh đạo đình công, vừa xác định trách nhiệm
của Công đoàn nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các cuộc đình công.
Thứ tư, quyền
khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động. Thông thường
quyền khởi kiện để bảo vệ tập thể lao động do Công đoàn cơ sở thực hiện; tuy
nhiên, Công
đoàn cấp trên của Công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong
trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do
pháp luật quy định.
Kết luận: Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, công đoàn có quyền
hạn lớn, được ghi nhận trên nhiều phương diện của quan hệ lao động. Tuy có
nhiều quyền hạn, nhưng hiệu quả hoạt động của công đoàn còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác, đặc biệt từ sự nỗ lực về mọi mặt của chính tổ chức công đoàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét