Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG CỦA LAO ĐỘNG

       Tại Điều 10 Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định “Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và người lao động, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ công nhân viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân viên và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
     Với khái niệm như vậy, tổ chức công đoàn có mối quan hệ mật thiết với các ngành, các lĩnh vực trong xã hội. Và trong lĩnh vực lao động tổ chức công đoàn cũng chiếm một vị trí quan trọng như khái niệm, bản chất của nó. Vậy, thẩm quyền của tổ chức công đoàn trong lĩnh vực lao động ra sao?
      Ngoài thẩm quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện của người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động  thì công đoàn còn có thẩm quyền trong lĩnh vực lao động như thẩm quyền tham gia kiểm tra, giám sát các quy định của pháp luật lao động; Quyền đại diện cho tập thể lao động ký kết các thỏa ước lao động tập thể; Quyền tham gia xây dựng nội quy ( quy chế) lao động, xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất và chấm dứt hợp đồng lao động; Quyền tổ chức và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; Quyền đại diện và tham gia trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp lao động các cuộc đình công;
        Thứ nhất, thẩm quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện của NSDLĐ thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động. Hiến pháp có quy định các tổ chức xã hội (trong đó có tổ chức công đoàn) có quyền tham gia vào công việc của nhà nước, tham gia quản lý nhà nước. Và đại diện của NSDLĐ trong việc “xây dựng và thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách cơ chế quản lí kinh tế, chủ trương, chính liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động” (Điều 4 Luật công đoàn năm 1990) , “ bàn bạc, giải quyết các vấn đề về quan hệ lao động” (Điều 156 Bộ luật lao động). Sự tham gia này của công đoàn đảm bảo ngay từ khi chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước nói chung, doanh nghiệp nói riêng được xây dựng, ban hành đã thể hiện mối quan hệ hợp tác, sự tôn trọng của các đối tác vớ tổ chức công đoàn, qua đó quyền và lợi ích của NLĐ được thừa nhận và bảo đảm thực hiện
      Thứ hai, Thẩm quyền tham gia kiểm tra, giám sát các quy định của pháp luật lao động. Tổng công đoàn Việt Nam đã trình Dự án Luật công đoàn và được Quốc hội thông qua trong đó có quy định công đoàn cùng với các cơ quan nhà nước xây dựng tham gia xây dựng chính sách, chế độ về lao động, tiền lương và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến người lao động.
      Xét về tổng thể, nó bao gồm tất cả các lĩnh vực trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới quan hệ lao động ( hợp đồng lao động, kỷ luật lao động, thời giờ làm việc và nghĩ ngơi, tiền lương, an toàn lao động, về sinh hoạt lao động, bảo hiểm xã hội…). Về đối tượng, bao gồm tất cả các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp… có thuê mướn, sử dụng lao động. Về hình thức thực hiện, công đoàn có thể tự mình tổ chức việc kiểm tra, giám sát ( Khoản 3 Điều 6 Luật công đoàn ) hoặc phối hợp với các cơ quan hữu quan (Khoản 4 Điều 6 Luật công đoàn; Điều 189 Bộ luật lao động sửa đổi bổ sung )
      Thứ ba, quyền đại diện cho tập thể lao động kí kết thỏa ước lao động tập thể. Sự quy định này của pháp luật không chỉ khẳng định địa vị pháp lý của công đoàn – tổ chức đại diện lao động mà còn tạo điều kiện để công đoàn thực hiện được chức năng quan trọng nhất là bảo vệ người lao động. Thỏa ước lao động tập thể khi được xác lập thực hiện với sự tham gia của công đoàn là căn cứ pháp lý xác định quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ, đồng thời thể hiện mối quan hệ hợp tác tôn trọng nhau trong điều kiện đảm bảo sự hài hòa, ổn định trong quan hệ lao động. Thỏa ước lao động tập thể là văn bản pháp lý quan trọng bởi nó là cầu nối giữa các quy phạm pháp luật lao động với điều kiện, khả năng thực tế của các bên, là cơ sở để các bên xác lập, thực hiện quan hệ hợp đồng lao động.
       Thứ tư, Quyền tham gia xây dựng nội quy ( quy chế) lao động, xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất và chấm dứt hợp đồng lao động.Việc tham gia của công đoàn vào quá trình xây dựng nội quy lao động không chỉ là sự đảm bảo cho tính hợp lý và đúng đắn của các quy định nội bộ trong doanh nghiệp mà còn bảo đảm cho tính khả thi cũng như hiệu quả của quá trình quản lý lao động.
       Khi người lao động vi phạm kỷ luật việc áp dụng hình thức kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất là quyền của người sử dụng lao động, nó là hậu quả pháp lý bất lợi cho người lao động cả về việc làm, thu nhập, nhân phẩm do vậy việc quy định có sự tham gia của đại diện ban chấp hành công đoàn là hợp lý ( Khoản 3 Điều 87, Điều 91 Bộ luật lao động ).
       Chấm dứt hợp đồng lao động là một điều khá phổ biến trong quan hệ lao động, tuy nhiên khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động thì cần phải có sự thống nhất với ban chấp hành công đoàn cơ sở trước khi chấm dứt.
       Thứ năm, Quyền tổ chức và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. Đây được coi vừa là quyền vừa là trách nhiệm của Công đoàn phù hợp với các quy định tại Điều 8 Luật Công đoàn cũng như nhiều văn bản pháp luật khác. Việc chăm lo đời sống người lao động bao gồm từ khi tham gia hoạch định các chính sách, chế độ liên quan đến cải thiện các điều kiện lao động sinh hoạt cho người lao động, từ việc đảm bảo các lợi ích vật chất cho người lao động trong quan hệ lao động (tiền lương, tiền thưởng…) đến việc phối hợp với người sử dụng lao động nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
        Công đoàn cùng với NSDLĐ phối hợp trong việc quản lí và sử dụng quỹ phúc lợi của đơn vị. Việc sử dụng quỹ phúc lợi phải được thực hiện một cách dân chủ, công khai và vì lợi ích chung.
XEM THÊM: NHÓM CÔNG TY
        Thứ sáu, Quyền đại diện và tham gia trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp lao động các cuộc đình công. Trong quan hệ lao động, các thỏa thuận, cam kết dù mang tính cá nhân hay tập thể đều là sự tự nguyện, bình đẳng. Do vậy, về mặt hình thức các thỏa thuận này phải được thực hiện trên cơ sở sự tự giác của các bên.
        Tư cách này được thể hiện trong những khía cạnh sau đây: Quyền tổ chức đối thoại giữa tập thể lao động với NSDLĐ; Quyền tham gia giải quyết tranh chấp lao động; Quyền tổ chức và lãnh đạo đình công; Quyền khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động.

       Tóm lại, với thẩm quyền nêu trên của tổ chức công đoàn trong lĩnh vực lao động có thể thấy một lần nữa chúng ta không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của tổ chức hay Công đoàn là tổ chức duy nhất đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và tập thể lao động.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét