Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

BÀI TẬP LỚN : Tìm hiểu về sản phẩm bảo hiểm nhóm và thực tiễn việc kinh doanh sản phẩm nhóm hiện nay

A - LỜI MỞ ĐẦU:

Ngày nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh phát triển rất mạnh, với tốc độ tăng trưởng trung bình khá cao. Đặc biệt, ở một số nước trên thế giới, bảo hiểm đã trở thành một phần không thể thiếu trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống nói chung, và Việt Nam của chúng ta cũng không phải là một ngoại lệ. Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát triển từ cách đây khoảng 10 năm khi thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm được xoá bỏ theo nghị định 100/1993/NĐ- CP được Chính phủ ban hành ngày 18/12/1993. Kể từ đó đến nay, ngành bảo hiểm đã có những bước tiến đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp phần rất tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ mới. Tuy nhiên  các loại hình về bảo hiểm thì lại phát triển không đồng đều và cũng chưa có được nhận thức đúng đắn về chúng. Và bảo hiểm nhóm – một loại hình của bảo hiểm nhân thọ cũng là một trong những loại hình bảo hiểm được chú ý và thực sự phát triển ở Việt Nam trong khi nó lại có những ưu điểm hết sức thiết thực. Vì vậy, với đề tài “ Tìm hiểu về sản phẩm bảo hiểm nhóm và thực tiễn việc kinh doanh sản phẩm nhóm hiện nay” em xin đi sâu vào tìm hiểu về vấn đề bảo hiểm nhóm và thực tiễn kinh doanh loại bảo hiểm này ở nước ta hiện nay.

B – NỘI DUNG:
I, Khái quát về bảo hiểm :
1, Khái niệm bảo hiểm:
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm."
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo hiểm với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”.
2. Các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm:
2.1. Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn (fortuity not certainty)
Nguyên tắc này chỉ ra rằng người bảo hiểm chỉ bảo hiểm một rủi ro, tức là bảo hiểm một sự cố, một tai nạn, tai hoạ, xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro gây ra chứ không bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra, đương nhiên xảy ra.
Như vậy, người ta chỉ bảo hiểm cho những gì có tính chất rủi ro, bất ngờ, không lường trước được, nghĩa là không bảo hiểm cái gì đã xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra. Bởi lẽ, bảo hiểm được thực hiện chính là nhằm giải quyết hậu quả của những sự cố rủi ro ngoài ý muốn của con người, những rủi ro mà con người không thể hạn chế được hoặc chỉ hạn chế được phần nào. Người khai thác không nhận bảo hiểm khi biết chắc chắn rủi ro được bảo hiểm sẽ xảy ra, ví dụ như xe cơ giới không đảm bảo an toàn kỹ thuật, con tàu không đủ khả năng đi biển… Người ta cũng không bảo hiểm cho những gì đã xảy ra, ví dụ như bảo hiểm cho tàu, xe sau khi chúng đã gặp tai nạn.
2.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith)
Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực với nhau. Tuy nhiên, trong bảo hiểm, điều này được thể hiện trên một nguyên tắc chặt chẽ hơn, và ràng buộc cao hơn về mặt trách nhiệm. Theo nguyên tắc này, hai bên trong mối quan hệ bảo hiểm (người bảo hiểm và người được bảo hiểm) phải tuyệt đối trung thực với nhau, tin tuởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin cung cấp cho bên kia. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp. Nếu một bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên không có hiệu lực. Nguyên tắc này thể hiện như sau:
- Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện, nguyên tắc, thể lệ, giá cả bảo hiểm… cho người được bảo hiểm biết. Ví dụ, trong bảo hiểm hàng hải, mặt 1 của đơn bảo hiểm bao gồm các nội dung như điều kiện bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, tỷ lệ bảo hiểm…, mặt 2 bao gồm quy tắc, thể lệ bảo hiểm của công ty bảo hiểm có liên quan. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm. Người bảo hiểm cũng không được nhận bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đã đến nơi an toàn.
- Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác các chi tiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm. Họ cũng phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo hiểm, về rủi ro, về những mối đe dọa nguy hiểm hay làm tăng thêm rủi ro…mà mình biết được hoặc đáng lẽ phải biết. Người được bảo hiểm cũng không được mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đó đã bị tổn thất.
Sở dĩ có nguyên tắc này là vì trong giao dịch bảo hiểm, chỉ có người chủ (hoặc người quản lý, sử dụng) mới biết được tất cả mọi yếu tố của đối tượng bảo hiểm, biết rủi ro mình yêu cầu bảo hiểm, còn người bảo hiểm thường không biết rõ rủi ro mà chỉ dựa vào những thông tin do người yêu cầu bảo hiểm cung cấp để xét đoán mức độ rủi ro và quyết định thái độ của mình đối với rủi ro: nhận hay không nhận bảo hiểm, nhận bảo hiểm theo điều kiện, điều khoản như thế nào và tính tỉ lệ phí bảo hiểm bao nhiêu… Do đó, người yêu cầu bảo hiểm phải có trách nhiệm khai báo mọi yếu tố liên quan một cách đầy đủ và trung thực và phải khai báo sự phát sinh các yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng đến đối tượng được bảo hiểm trong suốt thời gian hợp đồng có hiệu lực hoặc khi tái tục hợp đồng.
Ví dụ, một người mua bảo hiểm thiệt hại do hoả hoạn, lụt lội, trộm cắp cho một ngôi nhà và biết rằng vùng đó thưòng có nguy cơ xảy ra bão lụt nhưng khi mua bảo hiểm lại không khai báo gì về điều đó. Khi bão đến gây ra thiệt hại cho ngôi nhà, người đó cũng không được bảo hiểm bồi thường. Một ví dụ khác là khi tàu, xe đã gặp tai nạn, chủ tàu, chủ xe mới tham gia bảo hiểm để được bồi thường, bằng cách mua bảo hiểm ghi lùi lại ngày tháng trước tai nạn, hoặc tìm cách để có hồ sơ tai nạn ghi ngày tháng xảy ra sau ngày mua bảo hiểm. Trong trường hợp đó, người bảo hiểm sau khi biết người được bảo hiểm không khai báo thật, có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm hoặc không bồi thường tổn thất xảy ra.
XEM THÊM: NHÓM CÔNG TY
2.3. Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest)
Quyền lợi có thể được bảo hiểm, hay lợi ích bảo hiểm, là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Như vậy, quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Người nào có quyền lợi có thể được bảo hiểm ở một đối tượng bảo hiểm nào đó có nghĩa là quyền lợi của người đó sẽ được đảm bảo nếu đối tượng đó được an toàn, và ngược lại, quyền lợi của người đó sẽ bị phương hại nếu đối tượng bảo hiểm đó gặp rủi ro. Nói khác đi, người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Người có quyền lợi có thể được bảo hiểm là người có một số quan hệ với đối tượng bảo hiểm được pháp luật công nhận. Đó có thể là người chủ sở hữu của đối tượng bảo hiểm đó, người chịu trách nhiệm quản lý tài sản hoặc người nhận cầm cố tài sản. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có ý nghĩa rất to lớn trong bảo hiểm, có quyền lợi có thể được bảo hiểm thì mới được ký kết hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm đã phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm rồi mới được bồi thường.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm chỉ ra rằng, người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hải, quyền lợi có thể được bảo hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng nhất thiết phải có khi xảy ra tổn thất.
2.4. Nguyên tắc bồi thường (indemnity)
Bồi thường” có thể được hiểu là “sự bảo vệ hoặc đảm bảo cho thiệt hại hoặc tổn thất phát sinh từ trách nhiệm pháp lý”. ở đây, “đảm bảo” và “bảo vệ” rất phù hợp với ý nghĩa của bảo hiểm. Mục đích của bảo hiểm chính là nhằm khôi phục vị trí tài chính như ban đầu cho người được bảo hiểm ngay sau khi tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có rất nhiều trường hợp các công ty bảo hiểm không thể khôi phục được hoàn toàn vị trí tài chính ban đầu cho người được bảo hiểm mà chỉ có thể cố gắng khôi phục được gần như thế.
Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi. Trong bảo hiểm, số tiền bồi thường mà một công ty bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm trong một rủi ro được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm, không được lớn hơn thiệt hại thực tế. Người được bảo hiểm cũng không thể được bồi thường nhiều hơn thiệt hại do tổn thất, không được kiếm lời bằng con đường bảo hiểm, tối đa người được bảo hiểm cũng chỉ được bồi thường đầy đủ, chứ không thể nhiều hơn thiệt hại.
Ở đây, ta thấy có mối liên hệ giữa bồi thường và quyền lợi được bảo hiểm. Khi xảy ra trường hợp phải bồi thường, số tiền trả cho người được bảo hiểm không được vượt quá mức độ quyền lợi của người đó. Tuy nhiên, đôi khi, người được bảo hiểm chỉ được nhận số tiền ít hơn giá trị lợi ích của họ. Cùng với quyền lợi được bảo hiểm, nguyên tắc bồi thường phụ thuộc chủ yếu vào việc đánh giá tài chính, và như vậy, khi xem xét giá trị sinh mạng, hoặc bồi thường thương tật con người, chúng ta không thể đưa ra được số tiền chính xác.
2.5. Nguyên tắc thế quyền (subrogation)
Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Tất cả các khoản tiền nào có thể thu hồi được để giảm bớt thiệt hại đều thuộc quyền sở hữu của người bảo hiểm, tức là người đã trả tiền bồi thường tổn thất. Khi số tiền phải bồi thường càng lớn thì việc áp dụng nguyên tắc thế quyền càng quan trọng và có ý nghĩa. Thế quyền có thể được thực hiện trước hoặc sau khi bồi thường tổn thất. Trong trường hợp này, người bảo hiểm được thay mặt người được bảo hiểm để làm việc với các bên liên quan. Để thực hiện được nguyên tắc này, người được bảo hiểm phải cung cấp các biên bản, giấy tờ, chứng từ, thư từ… cần thiết cho người bảo hiểm.
Điều cần chú ý là, người được bảo hiểm cũng có thể được bồi thường từ một nguồn khác ngoài nguồn bồi thường từ công ty bảo hiểm, nhưng trong trường hợp đó, bất cứ số tiền nào mà người được bảo hiểm thu được cũng phải đặt dưới danh nghĩa của công ty bảo hiểm đã thực hiện bồi thường. Do mối quan hệ chặt chẽ giữa thế quyền và bồi thường, một công ty bảo hiểm không được phép thu nhiều hơn số tiền họ đã bồi thường. Người bảo hiểm chỉ được thực hiện thế quyền ở mức độ tương đương với số tiền đã trả hoặc sẽ trả. Điều này cũng có nghĩa là không chỉ người được bảo hiểm mà cả công ty bảo hiểm đều không được phép thu lời từ việc thực hiện quyền của mình.
3. Các loại hình bảo hiểm:
3.1. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm
Theo tiêu chí này, bảo hiểm có thể phân ra thành:
* Bảo hiểm xã hội (social insurance)
* Bảo hiểm thương mại (commercial insurance)
3.2. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm
Theo tiêu chí phân loại này, chúng ta lại có hai loại bảo hiểm:
* Bảo hiểm nhân thọ (life insurance)
* Bảo hiểm phi nhân thọ (non-life insurance)
3.3. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
Nếu xem xét theo đối tượng bảo hiểm, có thể phân chia như sau:
* Bảo hiểm con người (insurance of the person)
* Bảo hiểm tài sản (property insurance)
3.4. Căn cứ vào quy định của pháp luật
Nếu xét trên cơ sở quy định của pháp luật, các loại hình bảo hiểm lại có thể được phân chia thành bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
* Bảo hiểm bắt buộc
* Bảo hiểm không bắt buộc
II - Khái quát về bảo hiểm nhóm:
1 - Khái niệm bảo hiểm nhóm:
Các loại hình cơ bản của bảo hiểm nhân thọ được xác định như sau:
- Căn cứ theo hình thức hợp đồng, bảo hiểm nhân thọ được chia thành 2 loại: Sản phẩm chính và điều khoản riêng.
          - Căn cứ theo đối tượng được bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ chia thành 2 loại: Bảo hiểm cá nhân và bảo hiểm nhóm.
 - Căn cứ theo phạm vi bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ chia thành 5 loại: Bảo hiểm sinh kì, bảo hiểm tử kì, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trọn đời và bảo hiểm trả tiền định kì
Như vậy thì bảo hiểm nhóm cũng là một loại bảo hiểm nhân thọ mang nhiều đặc điểm tương tự như hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dành cho cá nhân nhưng có đặc điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất là: hợp đồng bảo hiểm nhóm bảo hiểm cho một nhóm người, thay vì chỉ bảo hiểm cho một người hay người trong một gia đình như trong hợp đồng bảo hiểm cá nhân. “Nhóm” ở đây phải thoả mãn điều kiện là một nhóm người được thành lập không vì mục đích tham gia bảo hiểm.

2, Đặc điểm của bảo hiểm nhóm:
Đối tượng có thể tham gia bảo hiểm nhóm: Theo nguyên tắc, những người thuộc các nhóm nhân viên trong một doanh nghiệp (hoặc một đơn vị, tổ chức), nhóm công đoàn lao động, nhóm người vay - người cho vay có thể tham gia bảo hiểm nhóm. Trên thực tế, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm nhóm là của nhóm nhân viên trong một doanh nghiệp. Hợp đồng bảo hiểm nhóm sẽ cung cấp quyền lợi cho những người thuộc nhóm đó.
Quyền lợi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhóm về cơ bản là giống với quyền lợi của người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dành cho cá nhân, chỉ có một số khác biệt cơ bản như: Thông thư­ờng hợp đồng bảo hiểm nhóm có mức phí thấp hơn so với hợp đồng bảo hiểm cá nhân; mặt khác người được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhóm có quyền chỉ định người thụ hưởng trong trường hợp mình qua đời. Trong khi đó, một điều thường thấy đối với các hợp đồng bảo hiểm cá nhân là người tham gia bảo hiểm - người chủ hợp đồng - chính là người có quyền chỉ định người thụ hưởng (Tất nhiên, trong bảo hiểm nhân thọ cá nhân, người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm có thể là một).
 3 - Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhóm:
Tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhóm gồm có hai bên là: Công ty bảo hiểm và người tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong đó, người tham gia hợp đồng bảo hiểm nhóm là người hoặc tổ chức quyết định mua loại hình bảo hiểm nhóm cho các thành viên thuộc nhóm mình. Đây chính là người đàm phán về điều khoản hợp đồng với công ty bảo hiểm.

4 - Phí trong hợp đồng bảo hiểm nhóm :
Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhóm được đóng góp thế nào phụ thuộc vào việc hợp đồng đó thuộc loại nào.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhóm không cùng đóng phí, toàn bộ số phí do người sử dụng lao động đóng, nhân viên (người được bảo hiểm nhóm) không phải đóng phí.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhóm cùng đóng phí, các thành viên (người được bảo hiểm nhóm) phải đóng toàn bộ hoặc một phần nào đó phí bảo hiểm, phần còn lại do người sử dụng lao động nộp.
III - Thực trạng kinh doanh bảo hiểm nhóm hiện nay ở nước ta:
1 – Thuận lợi: 
Ở Việt Nam, bảo hiểm nhóm vẫn chưa thực sự "bùng nổ" dù đã xuất hiện khá lâu. Nhưng theo các chuyên gia trong ngành bảo hiểm thì thời kỳ "ngủ đông" của dòng sản phẩm này sẽ không còn lâu nữa, bởi nhiều DN bảo hiểm nhân thọ đã nhận thấy tiềm năng rất gần của phân khúc này. Bởi lẽ, Mấy năm gần đây nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, khoảng 8%/năm. Không ít doanh nghiệp còn có tốc độ phát triển cao hơn thế. Việc hình thành các công ty con, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt động ra toàn quốc và nước ngoài, việc thành lập doanh nghiệp mới đòi hỏi một nguồn nhân lực lớn vừa thành thạo kỹ năng quản lý vừa thành thạo kỹ năng chuyên môn. Với đội ngũ này, doanh nghiệp đào tạo tuyển dụng rất công phu, có thể 5 năm, 10 năm mới có người xứng tầm ở vị trí được giao. Nhất là các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, họ luôn phải tuyển dụng và đào tạo người lao động Việt Nam dần dần thay thế vị trí của các chuyên gia nước ngoài (người từ nước có vốn đầu tư hoặc người từ các chi nhánh của công ty mẹ đến). Vậy mà trong chốc lát, bằng mọi cách trong đó các biện pháp trả lương cao hơn các doanh nghiệp khác đã lôi kéo được nguồn nhân lực về mình mà không cần phải đào tạo, trau dồi kiến thức nghề nghiệp, chuyên môn và quản lý. Thậm chí khi đã kéo được đối tượng này về doanh nghiệp của mình, họ còn thừa hưởng cả kinh nghiệm, hàm lượng chất xám trong công việc, kỹ năng chuyên môn, bí quyết kỹ thuật, khách hàng và thị trường có được từ những người lao động này. Vấn đề “chảy máu chất xám” trong doanh nghiệp trước sự bùng nổ phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp đang làm cho không ít doanh nghiệp phải đau đầu chống đỡ. Nhiều doanh nghiệp đã có chiến lược phát triển nguồn nhân lực của mình trong đó chính sách đối với người lao động có tầm quan trọng lớn. Hàng loạt các biện pháp đối xử ưu đãi đối với người lao động lành nghề có hàm lượng chất xám cao đã được đề ra.
Hơn nữa, biến động về nhân lực tại các DN Việt Nam thông thường diễn ra khá mạnh (theo một con số thống kê, khoảng 20 - 35% nhân viên, người quản lý rời bỏ các công ty trong vòng 1 năm từ khi vào làm việc) và ngay cả các DN trong ngành bảo hiểm cũng không tránh khỏi tình trạng này. Đó chính là thực tế khiến các công ty bảo hiểm nhận thấy đã đến lúc cần đẩy mạnh dòng sản phẩm bảo hiểm nhóm, như một cách để giúp các DN giữ được nguồn tài sản nhân lực của công ty.
Khác với bảo hiểm nhân thọ dành cho cá nhân, mức phí của bảo hiểm nhân thọ nhóm được tính toán dựa vào các đặc tính rủi ro của toàn nhóm như tuổi và nghề nghiệp, giới tính. Mức phí đối với sản phẩm bảo hiểm này chỉ chiếm một vài phần trăm tổng quỹ lương hàng năm của DN. Hiện nay, đã có rất nhiều doanh nghiệp bảo hiểm của Việt Nam đưa ra thị trường loại bảo hiểm này. Như Dai-ichi Life Việt Nam đã có sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nhóm với phí bảo hiểm rất linh hoạt và nhiều quyền lợi thiết thực. Ngoài ra, Công ty còn có một sản khác là An Thịnh chu toàn là sản phẩm thuộc dòng bảo hiểm liên kết chung (Universal Life). Đại diện Dai-ichi Life Việt Nam cho biết, An Thịnh chu toàn là sản phẩm dành cho mọi đối tượng khách hàng và các DN cũng có thể mua sản phẩm này cho nhân viên của mình. Hay AIA Life Việt Nam cũng có gói bảo hiểm nhóm có tính bảo vệ cao và linh hoạt (không mang tính tiết kiệm), dành cho một nhóm 30 người trở lên không cần thẩm định sức khỏe...
Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm nhóm thực sự nóng lên khi đầu tháng 10/2009, ACE Life chính thức giới thiệu sản phẩm mới Kế hoạch tài chính trọn đời - Quyền lợi nhân sự cấp cao và Bảo hiểm tử kỳ nhóm. Số lượng thành viên tối thiểu để được tham gia các sản phẩm này là 10 người. Sau hơn 1 tháng ra mắt sản phẩm, nguồn tin từ ACE Life cho biết đã có rất nhiều DN quan tâm tìm hiểu, đặc biệt là sản phẩm dành cho nhân sự cấp cao. Điều này chứng tỏ nhu cầu thị trường về sản phẩm này rất lớn, dù ở nước ngoài mua bảo hiểm cho nhân sự cấp cao dã trở thành một thói quen của các DN.
Cuối tháng 10/2009, Prévoir Việt Nam và ABBANK cũng ký kết hợp đồng hợp tác bảo hiểm cho cán bộ chủ chốt của khách hàng DN gửi tiền tại ABBANK. Đây là gói sản phẩm bảo hiểm nhóm, được thiết kế cho các thành viên chủ chốt (kế toán trưởng, thành viên ban giám đốc...) của khách hàng DN tham gia sản phẩm tiền gửi của ABBANK. Theo Phòng kinh doanh kênh Bancassurance của Prévoir Việt Nam, đây là sản phẩm dành cho khối DN liên kết với ngân hàng đầu tiên trên thị trường. Prévoir Việt Nam hy vọng, sản phẩm này sẽ được phát triển mạnh trong tương lai.
Một số DN bảo hiểm khác như Prudential mặc dù chưa có hẳn một sản phẩm bảo hiểm nhóm riêng biệt, nhưng cũng có các sản phẩm bảo hiểm cá nhân để DN mua cho nhân viên. Đại diện Prudential cho biết, dòng sản phẩm bảo hiểm nhóm cũng đang được DN này "để mắt". Một số công ty bảo hiểm khác cũng đã có bộ phận nghiên cứu nhu cầu của khách hàng DN để xúc tiến việc cho ra đời sản phẩm dành riêng cho đối tượng nhân viên trong DN.
Mặc dù nhu cầu thị trường là khá lớn, nhưng theo một chuyên gia trong ngành bảo hiểm thì các DN bảo hiểm vẫn triển khai khá thận trọng, bởi các sản phẩm bảo hiểm nhóm bán cho DN có mức phí bảo hiểm không bằng phí bán cho cá nhân . Hơn nữa, dù nhu cầu giữ chân nhân sự cấp cao đã được các DN nhận thức rất rõ và ngay tại các DN cũng đã có những chính sách ưu đãi riêng, nhưng mua bảo hiểm cho nhân viên vẫn chưa thực sự được quan tâm, bởi hiện nay khoản chi phí này vẫn chưa được xem là chi phí hợp lệ để đưa vào khấu trừ thuế.
Tuy nhiên, theo nhận định của lãnh dạo cấp cao một DN bảo hiểm nhân thọ: "Phát triển bất cứ sản phẩm nào cũng phải đi theo từng giai đoạn của thị trường và nhu cầu khách hàng. Thời điểm này là lúc các DN đã nhận thấy sự cần thiết của các chính sách giữ chân nhân sự cấp cao. Và thị trường sản phẩm bảo hiểm nhóm trong thời gian tới sẽ thực sự 'bùng nổ' bất chấp một vài trở ngại về chính sách"
Ví dụ: Một số đặc trưng cơ bản của sản phẩm bảo hiểm tử kì nhóm (An Nghiệp Thành Công) của Bảo Việt Nhân Thọ:
* Bên mua bảo hiểm (Người tham gia bảo hiểm):
Bên mua bảo hiểm là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp. Như vậy, Bên mua bảo hiểm có thể là một cơ quan, đơn vị, tổ chức như các doanh nghiệp, nông trường, hợp tác xã, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, cơ quan Nhà nước...
*Người được bảo hiểm:
Người được bảo hiểm là người trong độ tuổi được bảo hiểm tại thời điểm phát sinh hiệu lực của Hợp đồng bảo hiểm, đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều khoản và các điều kiện của Hợp đồng bảo hiểm, được Bảo Việt Nhân thọ chấp nhận bảo hiểm theo Điều khoản và các điều kiện của Hợp đồng bảo hiểm An Nghiệp Thành Công.
Bảo Việt Nhân Thọ quy định độ tuổi của Người được bảo hiểm nhằm tạo điều kiện mở rộng đối tượng được bảo hiểm của sản phẩm An Nghiệp Thành Công, không chỉ bảo hiểm cho người lao động trong các tổ chức, doanh nghiệp mà còn bảo hiểm cho cả các đối tượng như học sinh, sinh viên, thành viên hiệp hội, khách hàng của tổ chức, doanh nghiệp...
*  Nhóm được bảo hiểm:
Nhóm được bảo hiểm là tập hợp những Người được bảo hiểm theo cùng một Hợp đồng bảo hiểm và Hợp đồng tái tục của Hợp đồng bảo hiểm An Nghiệp Thành Công. Nhóm được bảo hiểm phải luôn quản lý được những thay đổi liên quan đến các thành viên trong Nhóm.
*  Người thụ hưởng (Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm):
Theo quy định của pháp luật và Điều khoản bảo hiểm, Người thụ hưởng là người được nhận quyền lợi bảo hiểm khi Người được bảo hiểm chết. Người thụ hưởng của Hợp đồng bảo hiểm do Bên mua bảo hiểm chỉ định với sự đồng ý bằng văn bản của Người được bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có thể chỉ định Người thụ hưởng là chính Bên mua bảo hiểm nhưng phải có sự đồng ý bằng văn bản của Người được bảo hiểm. Trong trường hợp Người được bảo hiểm không chỉ định Người thụ hưởng là Bên mua bảo hiểm và cũng không chỉ định người thụ hưởng nào khác hoặc tại thời điểm Người được bảo hiểm chết không có người thụ hưởng chỉ định thì người thụ hưởng của phần hợp đồng liên quan đến Người được bảo hiểm này là (những) người thừa kế hợp pháp của Người được bảo hiểm.
*  Thủ tục yêu cầu bảo hiểm:
Bên mua bảo hiểm hoàn tất Giấy yêu cầu bảo hiểm theo mẫu của Bảo Việt Nhân thọ và đóng phí bảo hiểm đầu tiên hoặc số ước tính phí bảo hiểm đầu tiên. Bên mua bảo hiểm cung cấp Danh sách Người được bảo hiểm theo mẫu của Bảo Việt Nhân thọ và Danh sách Người được bảo hiểm phải được Bên mua bảo hiểm, Người được bảo hiểm và Bảo Việt Nhân thọ xác nhận.
*  Lựa chọn quyền lợi bảo hiểm:
Theo Điều khoản sản phẩm An Nghiệp Thành Công, khách hàng có thể lựa chọn 1 trong 2 quyền lợi bảo hiểm là:
- Quyền lợi bảo hiểm tử vong và thương tật do tai nạn.
- Quyền lợi bảo hiểm kết hợp.
*  Quyền lợi bảo hiểm tử vong và thương tật do tai nạn:
- Số tiền thanh toán: Số tiền bảo hiểm đã cam kết đối với Người được bảo hiểm trong Hợp đồng bảo hiểm.
- Điều kiện thanh toán: Người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm do tai nạn xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của Hợp đồng bảo hiểm.
- Người nhận tiền thanh toán: Người thụ hưởng được xác định trong Danh sách Người thụ hưởng của Hợp đồng bảo hiểm.
*  Quyền lợi bảo hiểm kết hợp:
Quyền lợi này được kết hợp giữa Quyền lợi bảo hiểm tử vong, thương tật do tai nạn và Quyền lợi bảo hiểm tử vong không do tai nạn. Quyền lợi bảo hiểm được quy định chi tiết trong hợp đồng bảo hiểm.
2 – Khó khăn:
Thời điểm cuối năm đang đến gần, đây cũng chính lúc các doanh nghiệp kinh doanh tính toán lợi nhuận sẽ đạt được cả năm và lên kế hoạch lương thưởng cuối năm, cũng như điều chỉnh chính sách phúc lợi cho nhân viên năm sau. Thời điểm này cũng là cơ hội để các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp thị và quảng bá các sản phẩm bảo hiểm nhóm dành cho doanh nghiệp. Trên thị trường hiện nay, những doanh nghiệp bảo hiểm triển khai sản phẩm này là AIA Việt Nam (đây là doanh nghiệp tiên phong đưa sản phẩm bảo hiểm nhóm vào thị trường Việt Nam), Liên doanh Bảo Minh CMG (nay là Dai-ichi Life Việt Nam), ACE Life và mới đây Prudential Việt Nam quyết định“trình làng”sản phẩm bảo hiểm “Phú Bảo Nghiệp”.
Với việc ra mắt sản phẩm “Phú Bảo Nghiệp”, Prudential Việt Nam tiếp tục dẫn đầu thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam về danh mục sản phẩm đa dạng. Trong hơn 10 năm qua, công ty này giới thiệu ra thị trường trên 50 sản phẩm bảo hiểm, bao gồm sản phẩm bảo hiểm truyền thống, bảo hiểm liên kết đầu tư, bảo hiểm liên kết chung, bảo hiểm liên kết ngân hàng và mới nhất là bảo hiểm nhân thọ nhóm.
Đại diện Prudential Việt Nam cho biết, xu hướng chung của các công ty bảo hiểm là phải đa dạng hóa danh mục sản phẩm bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm phải “phủ sóng” không chỉ cho một nhóm khách hàng, mà xu hướng chung là sẽ hướng tới tất cả đối tượng khách hàng. Sau khi ra mắt sản phẩm bảo hiểm nhóm, sản phẩm bảo hiểm dành cho người có thu nhập thấp cũng sẽ được Prudential Việt Nam nghiên cứu.
Tại AAA Việt Nam, những sản phẩm bảo hiểm nhóm mà công ty này đang triển khai là bảo hiểm nhóm dành cho toàn bộ nhân viên, bảo hiểm nhóm dành cho đội ngũ nhân sự chủ chốt, chương trình giữ chân người tài cho toàn bộ nhân viên, chương trình giữ chân người tài cho người chủ chốt. Ngoài ra, AIA Việt Nam còn có các sản phẩm bảo hiểm nhóm có tính bảo vệ cao, như bảo hiểm hưu trí dành cho nhân sự cấp cao. Các sản phẩm này đều có chung ưu điểm là bảo vệ nhân viên suốt 365 ngày/năm, 24 giờ/ngày trên toàn thế giới…
Bảo hiểm nhân thọ nhóm là chương trình bảo hiểm dành cho nhân viên được các doanh nghiệp quan tâm rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Việc tham gia bảo hiểm cho nhân viên được xem như là một hình thức tăng thêm phúc lợi của doanh nghiệp dành cho các nhân viên của mình. Chương trình bảo hiểm này cũng sẽ góp phần gia tăng sự trung thành của nhân viên đối với doanh nghiệp, vì họ cảm thấy được đánh giá đúng và tưởng thưởng xứng đáng cho những đóng góp của mình đối với doanh nghiệp… Ở Việt Nam, bảo hiểm nhóm xuất hiện đã khá lâu, nhưng thời gian qua vẫn chưa thực sự “bùng nổ”, bởi rất nhiều lý do, dù các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều đã nhận thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai của loại sản phẩm này.
Một chuyên gia trong ngành bảo hiểm cho rằng, bảo hiểm nhóm tại Việt Nam chưa phát triển, vì hiện tại, ngay cả “món ăn chính” là các sản phẩm bảo hiểm chính bán cho cá nhân, các công ty bảo hiểm nhân thọ còn chưa khai thác hết tiềm năng. Chính vì thế, “món ăn phụ” chưa được quan tâm tới.
Tại các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, sản phẩm bảo hiểm nhóm được bán rất chạy, vì đây chính là một giải pháp tốt giúp doanh nghiệp giữ chân nhân viên. Tuy nhiên, ở Việt Nam, dù đã được không ít doanh nghiệp triển khai, nhưng đến nay, dòng sản phẩm này không phải là dòng sản phẩm chủ lực của các công ty bảo hiểm nhân thọ. Bởi lẽ, chỉ có một số ít doanh nghiệp Việt Nam nghĩ tới giải pháp mua bảo hiểm nhóm cho nhân viên. Các doanh nghiệp vẫn chưa quan tâm đến giải pháp để giữ chân nhân sự, mà mới chỉ tập trung làm đúng theo quy định của pháp luật về chính sách phúc lợi cho người lao động.
Đại diện một doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài đã hoạt động 10 năm ở Việt Nam cho biết, tỷ lệ tái tục sản phẩm bảo hiểm nhóm của Công ty khá cao, với mức hiện tại là trên 80%. Tuy nhiên, sản phẩm bảo hiểm nhóm của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ mới chủ yếu bán cho doanh nghiệp nước ngoài, lãnh sự quán và đại sứ quán… mua cho nhân viên của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam tham gia mua sản phẩm này chủ yếu là công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh và một số ngân hàng lớn, nhưng tỷ lệ tham gia vẫn còn khá khiêm tốn.
Hơn nữa, hiện tại, các cơ quan chức năng vẫn chưa chấp nhận việc hạch toán tiền mua bảo hiểm của doanh nghiệp cho nhân viên vào trong chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp để tính vào giá thành, dù các doanh nghiệp đã kiến nghị từ những năm 2001 - 2002. Đây cũng là một trong những “rào cản” cho sự phát triển của dòng sản phẩm này. Được biết, quy định này dự kiến sẽ được Bộ Tài chính trình sửa đổi trong Luật Kinh doanh bảo hiểm mới.
C - KẾT LUẬN:
Qua những đánh giá và nhìn nhận về thực trạng kinh doanh bảo hiểm nói chung và kinh doanh bảo hiểm nhóm nói riêng tuy còn chưa phát triển mạnh mẽ và sâu rộng ở nước ta nhưng bước đầu cũng đạt được những thành tựu nhất định. Những hạn chế chủ yếu tồn tại vẫn là những quy định của pháp luật và nhận thức chưa đầy đủ của người dân về vấn đề bảo hiểm. Vì vậy, để kinh doanh bảo hiểm ngày một phát triển ở nước ta, gần gũi và thiết thực với người dân hơn thì những doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm rất cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước, cụ thể là các quy định pháp luật, nâng cao nhận thức của người dân về vai trò thiết yếu của bảo hiểm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét