Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

BÀI TẬP CÁ NHÂN 1 MÔN LUẬT LAO ĐỘNG

Tổ chức Công đoàn Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Là tổ chức xã hội song công đoàn lại có địa vị pháp lí đặc biệt khi tham gia quan hệ lao động : là người đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động (NLĐ), đặc biệt là trong việc tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện người sủ dụng lao động (NSDLĐ) thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động. Dưới đây là phần phân tích quyền quan trọng đó của công đoàn.
“Quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động” được ghi nhận cụ thể trong  Luật Công đoàn năm 1990 và Bộ luật lao động. Đây là quyền hạn của hệ thống Công đoàn các cấp, là biểu hiển rõ nét của mối quan hệ trong cơ chế ba bên. Điều 4 Luật công đoàn ghi nhận : “Công đoàn đại diện và tổ chức NLĐ tham gia với Nhà nước xây dựng và thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội, chính sách cơ chế quản lí kinh tế, chủ trương chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của NLĐ”. Điều 156 Bộ luật lao động quy định: “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, công đoàn các cấp tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện của NSDLĐ bàn bạc giải quyết các vấn đề về quan hệ lao động...” .Sự tham gia này của công đoàn đảm bảo ngay từ khi chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước nói chung, doanh nghiệp nói riêng được xây dựng, ban hành thể hiện mối quan hệ hợp tác, sự tôn trọng của các đối tác với tổ chức công đoàn, qua đó quyền lợi và lợi ích của NLĐ được thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Trong cơ chế ba bên thì  Nhà nước, công đoàn và  NSDLĐ cùng tham gia bàn bạc thống nhất quan điểm để giải quyết các vấn đề trong quan hệ lao động. Theo quy định của Bộ luật lao động thì những vấn đề cơ bản nhất có liên quan đến quyền lợi thân thiết của các bên trong quan hệ đều được quyết định trên cở sở sự hợp tác ba bên, trong đó Nhà nước nắm quyền quyết định trong việc ban hành pháp luật, hoạch định chính sách. Đây là sự hợp tác ở các cấp trung ương và thực tế ở nước ta, sự phối hợp giữa các bên thể hiện một cách rõ ràng nhất, hoạt động có hiệu quả nhất là ở tầm vĩ mô. Có thể nói, ở các mức độ khác nhau thì sự phối hợp giữa công đoàn, NSDLĐ cùng với nhà nước được áp dụng trong hầu hết các vấn đề liên quan đến quan hệ lao động, từ việc quy định điều kiện lao động, định mức lao động đến việc quy định tiền lương, quản lí lao động, giải quyết tranh chấp...Trong cơ chế ba bên còn bao hàm cả các quan hệ giữa hai bên đối tác, đặc biệt là giữa đại diện NLĐ và NSDLĐ tại đơn vị cơ sở.
Công đoàn Việt Nam được phân ra thành các cấp. Cao nhất là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, rồi đến Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành trung ương, Công đoàn tổng công ty trực thuốc Tổng liên đoàn; Công đoàn cấp trên cơ sở; Công đoàn cơ sở nghiệp đoàn ....Ở mỗi cấp thì việc thực hiện quyền này là khác nhau. Trong việc tham gia với Nhà nước, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam có quyền trình các dự án luật, pháp lệnh ra trước Quốc hội trong phạm vi các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của NLĐ. Là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐ, hơn ai hết công đoàn nắm rõ được tình trạng lao động thực tế, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của NLĐ để trên cơ sở đó trình ra trước Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh về các vấn đề liên quan trực tiếp đến NLĐ. Như trong vấn đề tiền lương, sự tham gia của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam sẽ giúp Chính phủ đưa ra các định mức lương tối thiểu hợp lí, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành nhất định, là cơ sở để trả lương cho NLĐ, đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích của họ. Sự tham gia với các cơ quan, tổ chức cùng cấp giải quyết mọi vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của NLĐ của Liên đoàn lao động là một thủ tục bắt buộc. Tuy nhiên quy định này lại quá chung chung, trên thực tế còn mang nặng tính hình thức. Công đoàn cấp cơ sở là nền tảng hoạt động của tổ chức công đoàn, nơi trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ cũng như công đoàn tham gia trực tiếp vào việc quản lí hoạt động của các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp cùng với NSDLĐ. Xét cho cùng thì nó là nơi quyết định hiệu quả lao động của cả hệ thống công đoàn. Cũng giống như công đoàn cấp trên, công đoàn cấp cơ sở cũng có thẩm quyền tham gia xây dựng chính sách, chế độ lao động, việc làm, tiền lương và các vấn đề khác liên quan trực tiếp đến NLĐ, tuy nhiên chỉ trong phạm vi các đơn vị, cơ sở nhất định. Ví dụ như công đoàn của một công ty có quyền tham gia với ban lãnh đạo công ty trong việc xây dựng chế độ chính sách về thời gian làm việc , mức lương công nhân,...Đồng thời, công đoàn cũng có quyền yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức tiếp và trả lời các vấn đề do NLĐ đặt ra. Điều này không chỉ đảm bảo cho các quyền lợi ích của NLĐ được thực hiện mà còn giúp công đoàn phát hiện những sai sót, bất cập, thiếu hợp lí để bổ sung, sửa chữa lại cho hợp lí hơn. Ở đây, công đoàn cơ sở còn có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của tòa án xử lí những hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Đặc biệt trong vấn đề giải quyết tranh chấp lao động, công đoàn có vai trò rất quan trọng xuất phát từ quyền hạn của mình. Một trong những nguyên tắc của giải quyết tranh chấp lao động là được quy định là : “Có sự tham gia của đại diện công đoàn và đại diện của người sử lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp ” (Khoản 4, Điều 158 Bộ luật Lao động).
Như vậy, công đoàn là đại diện duy nhất của NLĐ, với quyền hạn của mình đã phát huy được vai trò của mình tham gia vào quan hệ lao động. Đặc biệt là quyền : “Quyền tham gia với cơ quan nhà nước và đại diện NSD lao động thảo luận các vấn đề về quan hệ lao động.”. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm hạn chế và bất cập khi tổ chức công đoàn vẫn chưa thực sự hoạt động hiệu quả, nhất là công đoàn cơ sở. Từ đó cần phải có những quy định, giải pháp để công đoàn thực sự là địa diện quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ.







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét