Tổ chức Công đoàn Việt Nam có vị trí,
vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị. Là tổ chức xã hội song
công đoàn lại có địa vị pháp lí đặc biệt khi tham gia quan hệ lao
động : là người đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động (NLĐ), đặc biệt là trong việc tham gia với cơ quan nhà
nước và đại diện người sủ dụng lao động (NSDLĐ) thảo luận các vấn
đề về quan hệ lao động. Dưới đây là phần phân tích quyền quan trọng
đó của công đoàn.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CÔNG TY HỢP DANH
“Quyền tham gia với cơ quan nhà nước
và đại diện người sử dụng lao động thảo luận các vấn đề về quan
hệ lao động” được ghi nhận cụ thể trong Luật Công đoàn năm 1990 và Bộ luật lao
động. Đây là quyền hạn của hệ thống Công đoàn các cấp, là biểu
hiển rõ nét của mối quan hệ trong cơ chế ba bên. Điều 4 Luật công
đoàn ghi nhận : “Công đoàn đại diện và tổ chức NLĐ tham gia với Nhà
nước xây dựng và thực hiện chương trình phát triển kinh tế – xã hội,
chính sách cơ chế quản lí kinh tế, chủ trương chính sách liên quan
đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của NLĐ”. Điều 156 Bộ luật lao động
quy định: “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, công đoàn các cấp tham gia
với cơ quan nhà nước và đại diện của NSDLĐ bàn bạc giải quyết các
vấn đề về quan hệ lao động...” .Sự tham gia này của công đoàn đảm
bảo ngay từ khi chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước nói
chung, doanh nghiệp nói riêng được xây dựng, ban hành thể hiện mối quan
hệ hợp tác, sự tôn trọng của các đối tác với tổ chức công đoàn,
qua đó quyền lợi và lợi ích của NLĐ được thừa nhận và bảo đảm
thực hiện.
Trong cơ chế ba bên thì Nhà nước, công đoàn và NSDLĐ cùng tham gia bàn bạc thống nhất
quan điểm để giải quyết các vấn đề trong quan hệ lao động. Theo quy
định của Bộ luật lao động thì những vấn đề cơ bản nhất có liên quan
đến quyền lợi thân thiết của các bên trong quan hệ đều được quyết
định trên cở sở sự hợp tác ba bên, trong đó Nhà nước nắm quyền
quyết định trong việc ban hành pháp luật, hoạch định chính sách. Đây
là sự hợp tác ở các cấp trung ương và thực tế ở nước ta, sự phối
hợp giữa các bên thể hiện một cách rõ ràng nhất, hoạt động có
hiệu quả nhất là ở tầm vĩ mô. Có thể nói, ở các mức độ khác nhau
thì sự phối hợp giữa công đoàn, NSDLĐ cùng với nhà nước được áp
dụng trong hầu hết các vấn đề liên quan đến quan hệ lao động, từ
việc quy định điều kiện lao động, định mức lao động đến việc quy
định tiền lương, quản lí lao động, giải quyết tranh chấp...Trong cơ
chế ba bên còn bao hàm cả các quan hệ giữa hai bên đối tác, đặc biệt
là giữa đại diện NLĐ và NSDLĐ tại đơn vị cơ sở.
Công đoàn Việt Nam được phân ra
thành các cấp. Cao nhất là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, rồi đến
Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn
ngành trung ương, Công đoàn tổng công ty trực thuốc Tổng liên đoàn; Công
đoàn cấp trên cơ sở; Công đoàn cơ sở nghiệp đoàn ....Ở mỗi cấp thì
việc thực hiện quyền này là khác nhau. Trong việc tham gia với Nhà
nước, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam có quyền trình các dự án
luật, pháp lệnh ra trước Quốc hội trong phạm vi các vấn đề liên quan
trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của NLĐ. Là người đại
diện và bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐ, hơn ai hết công đoàn nắm rõ
được tình trạng lao động thực tế, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của
NLĐ để trên cơ sở đó trình ra trước Quốc hội các dự án luật, pháp
lệnh về các vấn đề liên quan trực tiếp đến NLĐ. Như trong vấn đề
tiền lương, sự tham gia của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam sẽ giúp
Chính phủ đưa ra các định mức lương tối thiểu hợp lí, phù hợp với đặc
điểm của từng vùng, từng ngành nhất định, là cơ sở để trả lương cho
NLĐ, đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích của họ. Sự tham gia
với các cơ quan, tổ chức cùng cấp giải quyết mọi vấn đề liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của NLĐ của Liên đoàn lao động là
một thủ tục bắt buộc. Tuy nhiên quy định này lại quá chung chung, trên
thực tế còn mang nặng tính hình thức. Công đoàn cấp cơ sở là nền
tảng hoạt động của tổ chức công đoàn, nơi trực tiếp bảo vệ quyền
và lợi ích của NLĐ cũng như công đoàn tham gia trực tiếp vào việc
quản lí hoạt động của các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp cùng với
NSDLĐ. Xét cho cùng thì nó là nơi quyết định hiệu quả lao động của
cả hệ thống công đoàn. Cũng giống như công đoàn cấp trên, công đoàn
cấp cơ sở cũng có thẩm quyền tham gia xây dựng chính sách, chế độ
lao động, việc làm, tiền lương và các vấn đề khác liên quan trực
tiếp đến NLĐ, tuy nhiên chỉ trong phạm vi các đơn vị, cơ sở nhất định.
Ví dụ như công đoàn của một công ty có quyền tham gia với ban lãnh
đạo công ty trong việc xây dựng chế độ chính sách về thời gian làm
việc , mức lương công nhân,...Đồng thời, công đoàn cũng có quyền yêu
cầu thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức tiếp và trả lời các
vấn đề do NLĐ đặt ra. Điều này không chỉ đảm bảo cho các quyền lợi
ích của NLĐ được thực hiện mà còn giúp công đoàn phát hiện những
sai sót, bất cập, thiếu hợp lí để bổ sung, sửa chữa lại cho hợp lí
hơn. Ở đây, công đoàn cơ sở còn có quyền kiến nghị với các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền của tòa án xử lí những hành vi vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Đặc biệt trong vấn đề giải
quyết tranh chấp lao động, công đoàn có vai trò rất quan trọng xuất
phát từ quyền hạn của mình. Một trong những nguyên tắc của giải
quyết tranh chấp lao động là được quy định là : “Có sự tham gia của
đại diện công đoàn và đại diện của người sử lao động trong quá
trình giải quyết tranh chấp ” (Khoản 4, Điều 158 Bộ luật Lao động).
Như vậy, công đoàn là đại diện duy
nhất của NLĐ, với quyền hạn của mình đã phát huy được vai trò của
mình tham gia vào quan hệ lao động. Đặc biệt là quyền : “Quyền tham
gia với cơ quan nhà nước và đại diện NSD lao động thảo luận các vấn
đề về quan hệ lao động.”. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm hạn chế và
bất cập khi tổ chức công đoàn vẫn chưa thực sự hoạt động hiệu quả,
nhất là công đoàn cơ sở. Từ đó cần phải có những quy định, giải
pháp để công đoàn thực sự là địa diện quyền và lợi ích hợp pháp
của NLĐ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét