ĐỀ BÀI:
1. Phân tích và bình luận cơ chế giải
quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền (3 điểm).
2. Công ty X có trụ sở chính tại thành phố
HCM và nhiều chi nhánh tại các tỉnh thành. Tháng 1/2005 Trần H được giám đốc
công ty tuyển vào làm việc tại chi nhánh Hà Tây theo hợp đồng lao động không
xác định thời hạn với công việc kế toán trưởng chi nhánh. Tháng 3/2008 khi
thanh tra tài chính chi nhánh phát hiện có dấu hiệu vi phạm, giám đốc công ty
yêu cầu tạm đình chỉ công việc đối với H. Kết luận cho thấy, H có nhiều sai sót
trong quản lý, nghiêm trọng nhất là dẫn đến việc kế toàn viên C tham ô 150
triệu đồng. Sau 3 lần triệu tập C không đến dự phiên họp kỉ luật, ngày 3/5/2008
giám đốc chi nhánh công ty tổ chức phiên họp. H có mặt nhưng yêu cầu phải có sự
tham gia của công đoàn (công ty X có thành lập tổ chức công đoàn) nhưng vì chi
nhánh chưa thành lập công đoàn nên giám đốc chi nhánh cho rằng không cần có sự
tham gia của công đoàn. Kết luận phiên họp giám đốc chi nhánh ra quyết định sa
thải H, C và yêu cầu H, C bồi thường số tiền tham ô. H không đồng ý với quyết
định sa thải và đệ đơn yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp. Cũng trong thời
gian này, công ty tuyên bố sáp nhập 3 chi nhánh Hà Nội, Hà Tây và Hải Phòng
thành 1 chi nhánh tại Hà Nội vì lý do sáp nhập địa giới hành chính và chi nhánh
Hải Phòng kinh doanh không hiệu quả. Công ty quyết định sử dụng 80% nhân viên
chi nhánh Hà Nội, 30% nhân viên chi nhánh Hải Phòng và không sử dụng nhân viên
nào của chi nhánh Hà Tây vì những bê bối tài chính ở đây. Cho rằng công ty X
không giải quyết công bằng và thỏa đáng, toàn bộ nhân viên chi nhánh Hà Tây
không đồng ý, cử ra đại diện làm đơn khiếu lại yêu cầu tổng giám đốc công ty
xem xét lại quyết định. Được biết trong số nhân viên của chi nhánh Hà Tây có 2
người mang thai, 1 người ốm đau đang điều trị tại viện.
Hỏi:
a/ Việc sa thải H và C có hợp pháp không? Vì sao? (1 điểm)
a/ Việc sa thải H và C có hợp pháp không? Vì sao? (1 điểm)
b/ Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của H và C? (1 điểm)
c/ Nếu muốn yêu cầu tòa án giải quyết H
phải gửi đơn đến đâu? Tòa án sẽ giải quyết như thế nào với vụ việc này? (1.5
điểm)
d/ Nhận xét về quyết định sử dụng lao động
của công ty trong trường hợp sáp nhập? Tư vấn cho công ty phải làm những thủ
tục gì để chấm dứt hợp pháp và giải quyết quyền lợi cho những người lao động bị
chấm dứt? (2.5 điểm)
đ/ Nếu công ty không giải quyết yêu cầu
khiếu nại tập thể nhân viên chi nhánh Hà Tây có thể sử dụng những cơ chế nào để
bảo vệ quyền lợi của mình? (1 điểm)
A - LỜI MỞ ĐẦU
Quan hệ pháp luật giữa người lao động và người sử dụng
lao động là quan hệ bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện, hợp tác, cùng có lợi. Tuy
nhiên, trên thực tế mối quan hệ này còn khoảng cách rất xa, hơn nữa một số quy
định của Bộ luật lao động chưa
được các bên quan tâm và tuân thủ đúng mức. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng vướng mắc và nảy sinh tranh chấp giữa người lao động và người sử dụng lao
động trong các đơn vị sử dụng lao động hiện nay.
B - GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ
Câu 1: Phân tích và bình luận cơ chế giải quyết
tranh chấp lao động tập thể về quyền (3
điểm).
1. Khái niệm tranh chấp lao động tập thể về quyền:
Tranh chấp lao động tập thể về quyền là những tranh chấp về
việc thực hiện các quy định trong pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập
thể, nội quy lao động đã được đăng kí với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc quy chế thỏa thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp, đơn vị mà tập thể lao
động cho rằng người sử dụng lao động vi phạm.
Có thể hiểu thông qua một ví
dụ như sau: Trong thỏa ước lao động tập thể của công ty T quy định mức
lương tối thiểu của người lao động trong doanh nghiệp là 1.200.000 đồng nhưng
thực tế, chủ doanh nghiệp chỉ trả cho người lao động 850.000 đồng. Lúc này, tập
thể những người lao động trong doanh nghiệp đó sẽ yêu cầu chủ doanh nghiệp phải
chi trả mức lương tối thiểu đã được ghi rõ trong thỏa ước. Nếu chủ doanh nghiệp
không đồng ý yêu cầu trên thì tập thể người lao động có quyền yêu cầu cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền giải quyết. Như vậy, giữa tập thể người lao động của
doanh nghiệp và người sử dụng lao động đã phát sinh một tranh chấp, tranh chấp
đó chính là tranh chấp lao động tập thể về quyền.
Cùng là tranh chấp lao
động, nhưng tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là những tranh chấp mà tập
thể lao động yêu cầu xác lập điều kiện lao động mới so với các quy định của
pháp luật lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng kí
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc các quy chế thỏa thuận hợp pháp khác ở
doanh nghiệp, đơn vị trong quá trình thương lượng giữa tập thể lao động với
người sử dụng lao động.
XEM THÊM: THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
2. Đặc điểm của
tranh chấp lao động tập thể về quyền:
Tranh chấp lao động tập thể về quyền là một dạng của tranh
chấp lao động cho nên nó cũng mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản của tranh chấp
lao động. Những đặc điểm đó là:
Tranh chấp lao động
tập thể về quyền thường xảy ra giữa các chủ thể của quan hệ lao động, cụ thể là
giữa tập thể những người lao động trong cùng một doanh nghiệp hoặc một bộ phận
trong doanh nghiệp với người sử dụng lao động.
Khi đó, tranh chấp này sẽ liên quan tới các vấn đề thuộc quan
hệ lao động (tiền lương, trợ cấp,…) và được biểu hiện ra bên ngoài thông qua
việc yêu cầu phía bên kia phải đảm bảo quyền lợi cho mình hay yêu cầu cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
Trở lại với ví dụ nêu trên, tranh chấp đó là tranh chấp lao
động tập thể về quyền bởi các chủ thể trong tranh chấp này là các chủ thể của
quan hệ lao động. Nó liên quan tới vấn đề tiền lương cơ bản của người lao động
trong doanh nghiệp, một vấn đề liên quan tới quan hệ lao động. Và trong tranh
chấp này, tập thể người lao động trong doanh nghiệp đã có yêu cầu chủ doanh
nghiệp phải thực hiện quy định của thỏa ước lao động tập thể.
3. Những vấn đề cần phải
lưu ý khi xem xét cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập thể
về quyền:
Thứ nhất, về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập
thể được quy định tại Điều 168 Bộ Luật Lao động 1994. Cụ thể, đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền, Hội
đồng hòa giải cơ sở (hoặc hòa giải viên), chủ tịch UBND cấp quận/huyện và Tòa
án nhân dân cấp tỉnh là những cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này.
Thứ hai, về trình tự giải quyết tranh chấp lao động tập thể nói chung
được quy định tại Điều 170, 171 và 172
Bộ Luật Lao động 1994. Tuy nhiên, đây là trình tự giải quyết tranh chấp lao động
tập thể nói chung, tức là bao gồm cả tranh chấp lao động tập thể về quyền và
tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Hai loại tranh chấp này có cách định
nghĩa, tính chất khác nhau cho nên sẽ có trình tự giải quyết khác nhau. Khi
phát sinh tranh chấp lao động tập thể về quyền, các bên có thể tiến hành thương
lượng trực tiếp với nhau để cùng tìm cách tháo gỡ, giải quyết vấn đề. Nếu
thương lượng không đạt được kết quả, một trong hai bên có quyền gửi đơn yêu cầu
Hội đồng hòa giải cơ sở (ở những doanh nghiệp đã có Công
đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn lâm thời)
hoặc hòa giải viên lao động (nơi chưa có Hội đồng hòa giải cơ sở) giải quyết.
Hội đồng hòa giải (hoặc hòa giải viên) sẽ tiến hành giải quyết theo quy định
tại Điều 170 Bộ Luật Lao động 1994. Trong trường hợp
hòa giải không thành hoặc hết thời hạn mà hội đồng hòa giải chưa tiến hành hòa
giải thì thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc về chủ tịch UBND quận/huyện. Nếu chủ
tịch UBND đưa ra giải pháp mà các bên không đồng ý hoặc hết thời hạn quy định
mà không giải quyết thì hai bên sẽ có những lựa chọn sau: một là
4. Biện pháp nâng cao hiệu quả của cơ chế giải quyết tranh chấp lao động
tập thể về quyền trong pháp luật hiện hành
Trên đây là toàn bộ cơ chế giải
quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là làm sao để nâng
cao hiệu quả của cơ chế này, ít gây tốn kém tiền bạc, thời gian cho Nhà nước,
người sử dụng là động và người lao động. Theo quan điểm của cá nhân sinh viên,
chúng ta có thể áp dụng hai biện pháp sau đây:
Một là, cần phải nâng cao
chất lượng của giai đoạn thương lượng và giai đoạn hòa giải. Có thể thấy,
thương lượng là một giai đoạn không bắt buộc trong cơ chế, tức là các bên có
thể thương lượng với nhau hoặc không cũng không hề gây ảnh hưởng đến tiến trình
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, bản chất của thương lượng đó là sự trao đổi,
so sánh ý kiến, quan điểm giữa các bên tranh chấp để cùng nhau tìm ra cách giải
quyết vấn đề. Hơn nữa, thương lượng không có một cách thức, một quy trình cụ
thể, chưa được pháp luật quy định rõ ràng nên nó rất đa dang, linh hoạt. Đối
với những tranh chấp lao động tập thể nói chung, về quyền nói riêng thì khi mới
phát sinh, quy mô thường chưa lớn. Vì vậy, nếu các bên tranh chấp ngồi lại đàm
phán với nhau ngay khi tranh chấp mới phát sinh, thì tranh chấp sẽ được giải
quyết một cách đơn giản và ít tốn kém, quan hệ lao động có thể được bảo toàn
một cách nguyên vẹn.
Tương tự như thương lượng, hòa giải cũng là một giai đoạn
trong cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng giai đoạn này lại bắt buộc phải được
các bên tuân thủ tuyệt đối theo các quy định của pháp luật. Một điểm khác nữa
là giai đoạn này bắt đầu có sự tham gia của bên thứ ba, chính là hòa giải viên
hoặc Hội đồng hòa giải cơ sở. Lúc này, quan điểm của các bên tuy đã có sự trái
ngược nhau, nếu có thương lượng thì không mang lại kết quả, nhưng mức độ gay
gắt của mâu thuẫn nhìn chung chưa cao. Do đó, nếu thành viên của hội đồng hòa
giải cơ sở hoặc hòa giải viên được đào tạo cơ bản về kiến thức pháp lý, có kinh
nghiệp thực tiễn, hết lòng vì công việc,… thì sẽ góp phần ngăn chặn tranh chấp
lao động tập thể về quyền bùng phát với quy mô lớn hơn và tiết kiệm thời gian,
công sức, của cải cho các bên.
Hai là, để thực hiện được
những vấn đề nêu trên, Nhà nước cần có những chính sách như đào tạo kĩ năng
thương lượng cho đại diện người sử dụng lao động và đại diện tập thể lao động,
mở các lớp đào tạo pháp lý cho các hòa giải viên, thành viên hội đồng hòa giải
cơ sở, tăng cường tuyên truyền pháp luật
cho người lao động,… Từ đó, chúng ta mới có thể hạn chế được những tranh chấp
lao động, đặc biệt là tranh chấp lao động về quyền trở thành một vấn đề đáng lo
ngại như hiện nay.
Câu 2: TÌNH HUỐNG
a/ Việc sa thải H và C
có hợp pháp không? Vì sao?
v Việc
sa thải C của công ty X là đúng pháp luật vì lý
do sau:
Đối
với trường hợp của C: Do C tham ô 150.000.000 đồng của công ty X do vậy C đã phạm tội nghiêm trọng (>5.000.000
đồng). Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 85 Bộ Luật Lao động 1994:
“1- Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường
hợp sau đây:
a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ,
kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích
của doanh nghiệp;
b)
…”
Hành
vi tham ô 150.000.000 đồng của C là hành vi trực tiếp gây thiệt hại cho công ty
do vậy, do vậy công ty X có quyền sa thải C với lý do vị phạm vào Khoản 1 Điều 85 Bộ Luật Lao động năm 1994.
Vậy, công ty X sa thải C là đủ căn cứ và đúng pháp
luật.
v
Về vấn đề sa thải H của công ty X:
Tuy hành vi
của H có gây thiệt hại cho công ty với
lỗi cố ý nhưng không có mối quan hệ nhân quả với việc C tham ô 150.000.000 đồng.
Do vậy việc sa thải H phải căn cứ vào nội quy của công ty. Theo đó, theo em
được chia ra hai trường hợp như sau:

Nếu trong
bảng nội quy của công ty có chỉ rõ nhân viên thiếu tinh thần trách nhiệm mà gây
hậu qủa nghiêm trọng thì sẽ bị sa thải hay các biện pháp kỷ luật thì H sẽ phải chịu
cùng hình phạt như C. Tuy nhiên, cũng là sa thải nhưng H và C thuộc hai trường hợp phạm tội khác nhau
chứ không phải cùng bị sa thải do tham ô.

Nếu trong
bảng nội quy quy định việc thiếu trách nhiệm trong công việc nhưng chỉ chịu các
biện pháp khác mà không phải là sa thải thì H không bị sa thải và hành vi sa
thải của công ty X là không đúng với pháp luật. Do H thiếu tinh thần trách
nhiệm dẫn đến hâu quả nghiêm trọng là C đã tham ô hơn 150.000.000 đồng, do vậy
H phải chịu các biện pháp kỷ luật của công ty căn cứ vào nội quy của công ty để
ra quyết định đối với H.
b/ Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
H và C?
Đối với C, ngoài phải chịu các hình thức kỷ luật tại Điều 85 Bộ Luật Lao động 1994 thì C còn phải chịu trách nhiệm bồi
thường và chịu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm bồi thường của C ở đây là bồi
thường vật chất, C phải trả lại toàn bộ 150.000.000 đồng cho công ty X và C phải chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tham ô quy định tại Điều 278 Bộ Luật Hình sự năm 1999.
Đối
với H, như đẫ phân tích ở trên, tuy hành vi của H có gây thiệt hại cho công ty nhưng
không có mối quan hệ nhân quả với việc C tham ô 150.000.000 đồng, do đó H không phải chịu trách nhiệm bồi
thường số tiền thiệt hại trên mà H phải chịu các hình thức kỷ luật do nhà nước đặt ra theo quy định tại
Điều 84 Bộ Luật Lao động năm 1994.
c/ Nếu muốn yêu cầu tòa án
giải quyết H phải gửi đơn đến đâu? Tòa án sẽ giải quyết như thế nào với vụ việc này?
Theo phân
tích ở trên, đối với hành vi của H thì việc công ty
X ra quyết định sa thải
H là không đúng theo quy định của pháp luật. Do đó trường hợp của H là trường
hợp tranh chấp lao động cá nhân về quyền vì: H đòi quyền lợi của mình trong
việc thực hiện nội quy lao động, việc thực hiện các quy định của pháp luật lao
động về việc sa thải mình của công ty X. Do vậy căn cứ vào thẩm quyền giải
quyết tranh hấp của tòa án thì H có thể gửi đơn lên tòa án nhân dân theo quy
định tại Điều 166 Bộ Luật Lao động 1994. Điều 166 Bộ
Luật Lao động 1994 có quy định như sau:
“Toà án nhân dân giải quyết những tranh chấp
lao động cá nhân sau đây mà không bắt
buộc phải qua hoà giải tại cơ sở:
a) Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao
động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động;
b) Tranh chấp về bồi thường thiệt
hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
c) Tranh chấp giữa người giúp việc
gia đình với người sử dụng lao động;
d) Tranh chấp về bảo hiểm xã hội quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 151 của Bộ luật này;
đ) Tranh chấp về bồi thường thiệt hại
giữa người lao động với doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.
Theo đó, H
phải gửi đơn lên Tòa án lao động thuộc tòa án nhân dân cấp Huyện để đề nghị
giải quyết trường hợp của mình.
d/ Nhận xét về quyết định sử dụng lao động của
công ty trong trường hợp sáp nhập? Tư vấn cho công ty phải làm những thủ tục gì
để chấm dứt hợp pháp và giải quyết quyền lợi cho những người lao động bị chấm
dứt?
Trong
trường hợp sáp nhập các chi nhánh của công ty X và đơn phương chấm dứt hợp đồng
vời các nhân viên thuộc chi nhánh Hà Tây là phù hợp với quy định của pháp luật
quy định tại Khoản 1 Điều 31 Bộ Luật Lao động 1994:
“Trong trường
hợp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền
quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp thì người sử dụng lao động
kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động với người lao
động. Trong trường hợp không sử dụng hết số lao động hiện có thì phải có phương
án sử dụng lao động theo quy định của pháp luật.
Người lao động
phải chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều này, được trợ cấp mất
việc làm theo quy định tại Khoản 1 Điều
17 của Bộ luật này”.
Tuy nhiên, lý do mà công ty X đưa ra là không hợp lý
và trái pháp luật. Khi sáp nhập công ty quyết định sử dụng lao động 80% nhân
viên chi nhánh Hà Nội, 30% nhân viên chi nhánh Hải Phòng và không sử dụng nhân
viên nào của chi nhánh Hà Tây với lý do là những bê bối tài chính ở đây. Như
vậy là sai vì theo quy định của pháp luật không hề có quy định việc đơn phương
chấm dứt hợp đồng với người lao động trong trường hợp công ty sáp nhập, chia
tách lại lấy lý do người lao động thuộc lý do trên. Do đó, theo quy định của
pháp luật, trong trường hợp này công ty X phải:
-
Trao đổi và thống nhất với ban chấp hành
công đoàn về danh sách dự kiến những người lao động mất việc làm (nếu doanh
nghiệp có công đoàn);
-
Lập danh sách những người mất việc làm
để công bố công khai trong doanh nghiệp;
-
Báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước về
lao động địa phương về việc chấm dứt Hợp đồng lao động với người lao động.
Trong báo cáo cần nêu rõ: số lượng người lao động hiện tại của công ty, số
người cần cắt giảm, lý do cần cắt giảm lao động, danh sách cụ thể những người
bị cắt giảm, chế độ giải quyết cho người lao động bị cắt giảm.Và việc lập danh
sách cắt giảm này cần phải căn cứ vào thâm niên, trình độ, và ưu tiên các
trường hợp lao động tàn tật, phụ nữ có thai... thì ko được cắt giảm.
Trong trường
hợp công ty đang có người mang thai thì công ty không có quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động hoặc sa thải vì chi nhánh của công ty X sáp nhập nên vẫn
còn hoạt động, theo quy định tại Khoản 3
Điều 111 như sau:
“Người sử dụng
lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với
người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12
tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động”.
Như vậy, công ty X không có quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng đối với 2 người mang thai, nếu chấm dứt hợp đồng thì phải trả trợ
cấp mất việc, chế độ nghỉ thai sản, và các quyền lợi khác như đang còn làm việc
tại công ty.
Đối
với người đang ốm đau điều trị tai bệnh viện thì công ty khi chấm dứt hợp đồng
thì cũng phải trả trợ cấp mất việc và các khoản quyền lợi khác như đang làm
việc tại công ty.
Đối với những người lao động phải chấm dứt hợp đồng
lao động thì công ty phải trợ cấp mất việc làm theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 của Bộ luật này. Khoản
1 Điều 17 Bộ Luật Lao động 1994 quy định trả trợ cấp mất việc làm “cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương,
nhưng ít nhất cũng bằng hai tháng lương”
đ/ Nếu công ty không
giải quyết yêu cầu khiếu nại tập thể nhân viên chi nhánh Hà Tây có thể sử dụng
những cơ chế nào để bảo vệ quyền lợi của mình?
Do đây là trường hợp liên quan đến nhiều người tại
doanh nghiệp chưa có công đoàn cơ sở nên đây được xem là tranh chấp tập thể về
quyền vì tập thể nhân viên ở đây cho rằng công ty X sa thải họ là vi phạm vào
quy định của pháp luật, do đó theo Khoản
2 Điều 157 Bộ Luật Lao động 1994 quy định:
“Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh
chấp về việc thực hiện các quy định của pháp luật lao động, thoả ước lao động
tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc các quy chế, thoả thuận hợp pháp khác ở doanh nghiệp mà tập thể lao động
cho rằng người sử dụng lao động vi phạm”
Vì đây là tranh chấp lao động tập thể về quyền nên
khi công ty X không giải quyết yêu cầu khiếu nại của tập thể nhân viên, thì họ
có quyền gửi đơn lên tòa án nhân dân cấp Tỉnh, vì Tòa án nhân dân cấp Tỉnh có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền theo quy định tại Điều 170b Bộ Luật Lao động năm 1994:
“Toà án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân
cấp Tỉnh) có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền. Trình
tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền tại tòa án được
thực hiện theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự”.
C - KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Từ
việc giải quyết tình huống trên ta thấy pháp luật cần xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách lao động; hoàn thiện khung pháp lý và tạo lập môi
trường thuận lợi để xây dựng mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người
lao động, hỗ trợ các bên trong việc thực thi pháp luật và chính sách về lao
động cũng như giải quyết các tranh chấp lao động. Quy định cụ thể và rõ ràng
các vấn đề về quyền và
nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động; bảo vệ quyền làm việc,
lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho quan hệ lao động được
hài hòa và ổn định, góp phần quản lý tốt người lao đông đồng thời phát huy trí sáng
tạo và tài năng của họ nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét