BÀI LÀM
1. Phân tích đặc trưng của hợp đồng
lao động và phân biệt với hợp đồng dịch vụ dân sự.
Để giải quyết yêu cầu của bài tập ta
cần biết rằng:
“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao
động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả công,điều kiện lao động,quyền và nghĩa vụ của mỗi
bên trong quan
hê lao động.” ( Điều 26 Bộ Luật Lao động 1994 )
1.1. Phân tích đặc trưng của hợp đồng
lao động:
Từ khái niệm về HĐLĐ đã nêu ở trên,ta
có thể thấy những đặc trưng của HĐLĐ bao gồm:
-Thứ nhất:Trong HĐLĐ có sự phụ thuộc
pháp lí của NLĐ với NSDLĐ.
Đây là đặc
trưng được coi là tiêu biểu nhất của HĐLĐ mà các hệ thông pháp luật khác nhau trên thế giới đều thừa
nhận.Có thể thấy trong tất cả các loại quan hệ khế ước,duy nhất HĐLĐ tồn tại đặc trưng này. Biểu hiện
ra bên ngoài là sự không bình
đẳng,bởi một bên trong quan hệ có quyền ra các mệnh lệnh,chỉ thị ( NSDLĐ ) và bên kia có nghĩa vụ
thực hiện.Song,yếu tố quản lí ở đây lại mang tính khách quan.Bởi vì ,khi tham gia quan hệ HĐLĐ mỗi
NLĐ thực hiện các nghĩa vụ có
tính cá nhân,đơn lẻ nhưng lao động ở đây là lao động mang tính xã hội hóa,vì thế hiệu quả cuối cùng
lại phụ thuộc vào sự phối hợp của cả tập thể,của tất cả các quan hệ lao động.Vì vậy,cần thiết
phải có sự thông nhất,liên kết,đồng bộ,…các quan hệ đơn lẻ trong trật tự chung thông qua
trung tâm chỉ huy và điều
phối bằng các yêu cầu đòi hỏi ,ràng buộc,mệnh lệnh …của chủ sơ hữu doanh nghiệp-bởi họ ,tức chủ sở
hữu trong điều kiện kinh tế thị trường phải có quyền quyết định kinh doanh như thế nào,tổ chức,sử
dụng lao động ra sao… để đạt hiệu
quả cao nhất.Do đó,yếu tố quản lí trong quan hệ lao động là khách quan .Sự thừa nhận của pháp luật về
vấn đề này và trao quyền quản lí cho NSDLĐ là phù hợp với sự tồn tại và tồn tại của quan hệ
lao động .Tuy nhiên,trong
thực tế do sẵn có những ưu thế hơn hẳn so với NLĐ đồng thời lại có quyền quản lí được pháp luật thừa
nhận nên dễ dẫn đến sự lạm dụng,phân biệt đối xử,bất bình đẳng của NSDLĐ với NLĐ.Song,vì là
người có quyền tổ chức,quản
lí lao động nên NSDLĐ phải có trách nhiệm với các hậu quả xảy ra trong quá trinh lao động.Chính vì
thế,đây cũng là đặc trưng quan trọng để người ta phân biệt HĐLĐ với các loại hợp đồng có nội dung
liên quan đến quan hệ lao
động.
-Thứ hai:Đối tượng của HĐLĐ l việc
làm có trả công.
Mặc dù HĐLĐ
là một loại quan hệ mua bán,song biểu hiện của nó không giồng các quan hệ thông thường khác trong
xã hội mà là một loại quan hệ mua bán đặc biệt.Một trong những khía cạnh đặc biệt của quan hệ
này thể hiện ở chỗ hàng hóa mang ra
trao đổi-sức lao động luôn tồn tại gắn liền với cơ thể NLĐ.Do đó,khi NSDLĐ mua hàng hoá sức lao
động thì cái mà họ được “sở hữu” đó là một quá trình lao động biểu thị thông qua thời gian
làm việc,trình độ chuyên
môn nghiệp vụ,thái độ,ý thức…của NLĐ và để thực hiện được những yêu cầu trên,NLĐ phải cung ứng sức lao động
từ thể lực và trí lực của chính mình biểu thị thông qua những khoảng thời gian đã được xác định
(ngày làm việc,tuần làm việc..). Như
vậy,sức lao động đã được mua bán trên thị trường là sức lao động trừu tượng,do đó các bên phải mua
bán thông qua một việc làm.Chính vì vậy,nội dung chủ yếu đầu tiên của HĐLĐ.Trong khi đó ,vấn đề mà
các chủ thể quan tâm chủ yếu
trong quan hệ dân sự về lao động là lao động đã kết tinh vào sản phẩm,dịch vụ,tức là lao động quá
khư.Vì vậy,họ không quan tâm đến quá trình mà chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng như là một dịch
vụ thông thường hay một quan hệ
kinh tế mua đứt bán đoạn (đoạn mại ).
Người ta có
thể quan niệm việc làm theo nhiều cách khác nhau nhưng với tư cách là đối tượng của HĐLĐ thì bao
giờ nó cũng có một liên hệ xác định như liên hệ tạo ra một mối lợi.Nói cách khác cũng như mọi
quan hệ mua và bán khác,việc
làm - như một thứ hàng hóa đem bán trên thị trường trước hết phải có ích mà ở đây có nghĩa là đem lại
cái lợi cho người mua và bán nó.Do đó việc làm với ý nghĩa là đối tượng của HĐLĐ phải là việc làm có
trả công.Như vậy khi NLĐ tham
gia vào quan hệ HĐLĐ hoàn thành công việc như đã thoả thuận thì NSDLĐ có trách nhiệm phải trả cồng
cho quá trình lao động đó bất luận việc kinh doanh của NSDLĐ có lãi hay không .Song về bản
chất tiền công của NLĐ là giá trị
của hàng hóa sức lao động,chính vì vậy nó được điều chỉnh bằng các quy chế pháp lí tương đối đặc biệt
không như giá cả những hàng hóa thông thường.
Việc xác
định đối tượng của HĐLĐ là việc làm có trả công không chỉ có ý nghĩa trong việc đưa ra một trong những
căn cứ để phân biệt HĐLĐ với những hợp đồng khác có nội dung tương tự mà còn có ý nghĩa với
chính quan hệ HĐLĐ,chẳng
hạn ở khía cạnh xác định chủ thể trong quan hệ lao động.Thông thường người ta xác định tư cách
NSDLĐ thông qua yếu tố quản lí trong quan hệ,song điều này không phải bao giờ cũng dễ dàng.
-Thứ ba:HĐLĐ do đích danh NLĐ thực
hiện
Đặc trưng này xuất phát từ bản chất của quan hệ
HĐLĐ.Nếu như quan hệ thuộc dân luật điều chỉnh,người ta chỉ quan tâm đến lao động đã kết
tinh và sản phẩm ,dịch
vụ thì quan hệ lao động theo HĐLĐ các bên không chỉ chú ý đến lao động quá khứ mà họ còn quan tâm đến
lao động sống,tức lao động đang có ,lao động đang diễn ra.Hơn nữa HĐLĐ thường được thực hiện
trong môi trường xã hội hóa,có
tính chuyên môn hóa và hợp tác hóa rất cao.Vì vậy,khi NSDLĐ thuê mướn NLĐ người ta không chỉ quan
tâm đến trình độ chuyên môn của NLĐ mà còn quan tâm đến đạo đức.ý thức phẩm chất…tức nhân
thân của NLĐ .Do đó NLĐ phải
trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết,không được dịch chuyển cho người thứ ba.Mặt khác trong
HĐLĐ ngoài những quyền lợi do hai bên thỏa thuận thì NLĐ còn có một số chế độ quyền lời theo quy
định của pháp luật như quyền nghỉ
hàng năm nghỉ lễ tết ,quyền hưởng chế độ hưu trí …Nhưng những quyền lợi này của NLĐ chỉ được hiện
thực hóa trên cơ sở sự cống hiến cho xã hội của NLĐ ( chủ yếu thể hiện thông qua thời gian làm
việc,mức tiền lương..).Vì
vậy,để được hưởng những quyền lợi nói trên NLĐ phải trực tiếp thực hiện HĐLĐ-đây là lí do thứ hai phải
giải thích cho đặc trưng này của HĐLĐ.
Song theo quy định tại khoản 4 Điều 30 BLLĐ thì NLĐ có
quyền dịch chuyển nghĩa vụ
lao động của mình cho người khác nếu được sự đồng ý của NSDLĐ.Quy định này là cần thiết nhằm
đáp ứng các nhu cầu khách quan trong quan hệ HĐLĐ.Nhưng cũng cần chú ý việc giải quyết hậu
quả khi có sự kiện pháp lí nảy
sinh trong trường hợp này.
Thứ tư:Trong HĐLĐ sự thỏa thuận của
các bên thường bị khống chế bởi những giới hạn pháp lí nhất định.
Trong thực tế với tất cả các quan hệ hợp đồng sự thoả
thuận của các bên bao giờ
cũng phải đảm bảo các quy định của pháp luật như sự bình đẳng,tư do,tư nguyện,tính không trái pháp
luật…Đối với HĐLĐ ngoài những đặc điểm nói trên thì sự thỏa thuận của các bên còn bị chi phối bởi
nguyên tắc thoả thuận:Quyển
lợi của NLĐ là tối đa,nghĩa vụ là tối thiểu.Theo đó,sự thoả thuận của các bên thưởng bị khuôn
khổ,khống chế bởi những ngưỡng ,giới hạn pháp lí nhất định của BLLĐ,thỏa ước lao động tập thể…như tiền
lương tối thiểu,thời giờ
làm việc,thời giờ nghỉ ngơi,…Nói cách khác,trong các quan hệ hợp đồng dấn sự,kinh tế..khung pháp lí cho sự
thoả thuận của các bên là rất rộng,đảm bảo tối đa quyền thoả thuận,định đoạt của các bên .Nhưng trong
quan hệ HĐLĐ quyền tự do và định
đoạt của các bên bị chi phối bởi những giới hạn pháp lí nhất định.Đặc trưng này của HĐLĐ xuất
phát từ nhu cầu bảo vệ,duy trì và phát triển sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường
không chỉ với tư cách là các quyền cơ bản của công dân mà còn có ý nghĩa xã hội đặc biệt
quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế,xã hội của đất nước.Mặt khác,HĐLĐ có quan hệ đến nhân cách của NLĐ do đó quá trình thỏa
thuận thực hiện HĐLĐ không thể tách rời với việc bảo vệ và tôn trọng nhân cách của NLĐ.
Ngoài ra cũng cần chú ý HĐLĐ là loại hợp đồng vừa có
tính ưng thuận ( thỏa thuận) vừa
có tính thực tế.Chính vì vậy,ngoài các quyền và nghĩa vụ thông qua sự thỏa thuận của các bên với các
thủ tục và hình thức theo quy định của pháp luật,người ta còn thừa nhận tính thực tế của quan hệ
HĐLĐ.Theo đó,trong trường hợp
này các quy định của pháp luật được thừa nhận một cách mềm dẻo và linh hoạt.Thừa nhận đặc trưng
này của HĐLĐ sẽ giải quyết được về mặt lí luận rất nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế hiện nay
như về chủ thể của HĐLĐ hình thức
nội dung HĐLĐ
-Thứ năm:HĐLĐ được thực hiện liên tục
trong thời gian nhất định hay vô hạn định.
HĐLĐ phải được thực hiện liên tục trong khoảng thời
gian nhất định hay trong
khoảng thời gian vô hạn định.Thời hạn của hợp đồng có thể được xác định
ró từ ngày có
hiệu lực đến một thời điểm nào đó,song cũng có thể không xác định trước thời hạn kết thúc.Ở đây,các
bên,đặc biệt là NLĐ không có quyền lựa chọn hay làm việc theo ý chí chủ quan của mình mà công việc
phải được thi hành tuần tự theo
thời gian đã được NSDLĐ xác định( ngày làm việc,tuần làm việc) .Đây cũng chính là một trong những căn
cứ để người ta phân biệt HĐLĐ với các hợp đồng dich vụ,hợp đồng gia công do Luật dân sự điều
chỉnh.Sự ngắt quãng,tạm ngưng trong
việc thực hiện hợp đồng chỉ được áp dụng trong những trường hợp đã được luật pháp quy định( các
trường hợp tạm hoãn HĐLĐ quy định tại điều 35 BLLĐ sửa đổi,bổ sung ;Điều 10 Nghị định số
44/2003/NĐ-CP ngày 9/5/2003).
1.2.
Phân biệt hợp đồng lao động với hợp đồng dịch vụ dân sự:
* Khái niệm hợp
đồng:
_ Hợp đồng lao động là
sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả
công,điều kiện lao động,quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao
động.(điều 26 BLLĐ 1994)
_ Hợp đồng dịch vụ dân sự là sự thỏa thuận
giữa các bên,theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch
vụ,còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ.
* Chủ thể:
_ Hợp đồng lao
động: chủ thể bắt buộc phải là người lao động và người sử dụng lao động.
_ Hợp đồng dịch vụ dân sự : chủ thể có thể
là bất kì cá nhân, pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự .
* Đối tượng của hợp
đồng:
_ Hợp đồng lao động : là công việc có trả
công.
_ Hợp đồng dịch
vụ dân sự : là công việc có thể thực hiện được,không
bị pháp luật
cấm,không trái đạo đức xã hội.
2. Giải quyết
tình huống:
Trong đoạn nhận
định của tòa án nhân dân huyện GK,ta thấy có các tình tíêt đáng lưu ý sau:
2.1. Công ty nơi bà H làm việc không có
nội quy lao động bằng văn bản nhưng trong quá trình quản lý đã thường xuyên
nhắc nhở nhân viên phải ý thức chấp hành mệnh lệnh. Theo Điều 82 BLLĐ 1994 thì “kỉ
luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian,công nghệ và điều
hành sản xuất,kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động. Nội quy lao động
không được trái với pháp luật lao động và pháp luật khác. Doanh nghiệp sử dụng
từ 10 NLĐ trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản”. Theo đề bài
thì ta không thể biết được công ty mà bà H đang làm việc có sử dụng 10 NLĐ trở
lên hay không. Nếu công ty sử dụng không quá 10 NLĐ thì việc không có nội quy
lao động bằng văn bản không trái với pháp luật lao động và do đó việc bà H
không có mặt tại công ty khi được giám đốc triệu tập hợp pháp để giải quyết
công việc khẩn cấp có khả năng là vi phạm kỉ luật nếu trong nọi quy của công ty
có quy định. Nếu công ty sử dụng từ 10 NLĐ trở lên thì bắt buộc phải có nội quy
lao động bằng văn bản.Không có nội quy lao động bằng văn bản thì công ty dựa
vào cơ sở nào để kỉ luật lao động? Do đó việc kỉ luật bà H là trái pháp luật.
2.2. Sau khi bị Giám đốc kỉ luật khiển trách,chuyển
làm công việc khác (từ văn thư chuyển xuống làm nhân viên tạp vụ vì không đủ
phẩm chất tiếp tục làm công việc cũ từ ngày 12/5/2008 đến 31/12/2008. Theo
khoản 1 điều 7 Nghị định 41- CP ngày 6-7-1995 quy định: “Mỗi hành vi vi phạm kỷ
luật lao động chỉ bị xử lý hình thức kỷ luật” do đó, việc công ty vừa áp dụng
hình thức kỷ luật khiển trách vừa áp dụng hình thức kỷ luật chuyển công việc
khác là trái pháp luật. Hơn nữa, theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 84 Luật
lao động sửa đổi, khoản 2 điều 6 Nghị định 41/CP thì hình thức chuyển công việc
khác được áp dụng đối với người lao động đã bị khiển trách bằng văn bản trong
thời hạn ba tháng mà tái phạm kể từ ngày bị khiển trách trong thời hạn tối đa
là 6 tháng. Công ty đã áp dụng hình thức kỷ luật chuyển làm công việc khác đối
với bà H trong khi bà H không tái phạm hơn nữa còn áp dụng trong thời hạn 7
tháng vượt quá quy định của Luật.
2.4. Ngày 15/5/2009 bà H trong khi bê khay
tiếp tân đã làm hỏng tấm thảm trị giá 15 triệu đồng của công ty.Vì vậy,công ty
đã ra quyết định sa thải vì đã gây thiệt hại nghiêm trọng và thuộc trường hợp
tái phạm nguy hiểm.
Theo Điều 9 Nghị định
41-CP quy định: “Tái phạm theo khoản 1 điều 88 của Bộ luật lao động là trường
hợp đương sự chưa được xóa kỷ luật lao động, lại phạm cùng lỗi mà trước dó đã
phạm”. Xét trong trường hợp này, bà H không tái phạm. Còn tái phạm nguy hiểm là
tính chất, mức độ lỗi, vi phạm tăng, ví dụ như lúc đầu gây thiệt hại 1 triệu
đồng, tái phạm nguy hiểm là cùng mắc lỗi như vậy nhưng gây thiệt hại lên tới
hàng chục triệu đồng.
Theo khoản 1 Điều 85
của luật lao động thì hình thức xử lý kỷ luật sa thải có thể áp dụng trong
trường hợp NLĐ có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của doanh
nghiệp. Điều đó có nghĩa là mức thiệt hại lớn hơn 5 triệu đồng. Như vậy, công
ty sa thải bà H với lý do gây thiệt hại nghiêm trọng là đúng.
XEM THÊM: TỔ CHỨC LẠI DOANH NGHIỆP
Bản án của Tòa án nhân
dân huyện GK nhận định “cần ủng hộ công ty trong việc xử lý đối với NLĐ vi
phạm” là một nhận định mang tính chủ quan của hội đồng xét xử, mà pháp luật
Việt Nam luôn đề cao việc bảo vệ quyền lợi cho NLĐ ở mức tốt nhất, kể cả trong
việc xử lý vi phạm kỷ luật NLĐ. Tóm lại là việc ủng hộ công ty trong việc xử lý
kỷ luật NLĐ vi phạm hơi có phần đi ngược với chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước của pháp luật lao động.
Hội đồng xét xử
có lưu ý công ty về vấn đề nội quy lao động là một việc làm rất đúng đắn. Bởi
vì khi nội quy lao động của công ty mà rõ ràng cụ thể thì cũng tạo khung pháp
lý vững chắc để xử lý người lao động vi phạm, nhưng mặt khác cũng là cơ sở pháp
lý để những người lao động được đối xử công bằng như nhau và không bị NSDLĐ lạm
dụng quyền hạn của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét