LỜI NÓI ĐẦU
Việt
Nam chúng ta hiện nay có tốc độ phát triển kinh tế khác nhanh, bên cạnh những
thành tựu chúng ta đạt được trên các mặt về kinh tế- xã hội còn kéo theo những
hậu quả tác động xấu tới môi trường. Đánh giá tác động môi trường là công cụ
pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xem xét, dự báo tác động môi trường của các dự
án cụ thể; cung cấp luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý chuyên
ngành và doanh nghiệp cân nhắc trong quá trình quyết định đầu tư. Do đó để hiểu
rõ hơn thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường
nên em xin chọn đề tài số 42 : “ Tìm hiểu tình hình thực tế áp dụng các quy
định pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam.”
NỘI DUNG
Căn
cứ theo khoản 20 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 (Luật BVMT) có nêu: “ Đánh
giá tác động môi trường là việc phân
tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các
biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó.” Theo đó, các chủ thể
có nghĩa vụ ĐTM phải xác định được các yếu tố liên quan đến họat động phát triển,
như yếu tố môi trường, yếu tố kinh tế - xã hội để từ đó nghiên cứu, thực hiện dự
án nhằm mục tiêu dự báo và giảm thiểu những tác động tiêu cực tới môi trường. Đồng
thời khi phát hiện những tác động tiêu cực thì các chủ thể có nghĩa vụ ĐTM phải
đưa ra các phương pháp giảm thiểu tác động tiêu cực đó.
Vai trò của ĐTM: Sự tăng trưởng,
phát triển kinh tế - xã hội nhanh như hiện nay kéo theo những tác động xấu tới
môi trường, do đó để hạn chế tới mức thấp nhất tác động của các hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội tới môi trường thì hoạt động ĐTM là rất cần thiết phải
thực hiện. Hoạt động ĐTM sẽ phần nào dự báo được các tác động tới môi trường của
các dự án đầu tư cụ thể, đồng thời đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế những
tác động têu cực, phát huy những tác động tích cực đối với môi trường. Vì thế,
khi lập báo cáo ĐTM sẽ có rất nhiều lợi ích: hoàn thiện thiết kế và lựa chọn dự
án, cung cấp thông tin chuẩn xác cho việc ra quyết định của chủ đầu tư và cơ
quan phê duyệt đầu tư, tăng cường trách nhiệm của các bên liên quan trong quá
trình triển khai dự án, đưa dự án phù hợp với bối cảnh môi trường để giảm bớt
những tác đỗng xấu tới môi trường, đómg góp phát triển bền vững. Với những lợi
ích đó ĐTM đóng góp: Phòng ngừa ôi nhiễm môi trường, sự cố môi trường và góp phần
giảm thiểu các xung đột môi trường, tạo ra sự đồng thuận của cộng đồng trong bảo
vệ môi trường.
Mục
đích và ý nghĩa của ĐTM: ĐTM góp phần phát triển bền vững, tìm ra biện pháp
tối ưu để hạn chế và giảm thiểu các tác động tiêu cực từ các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội tới môi trường; cung cấp thông tin cho việc ra quyết định để
hoạt động phát triển phù hợp với môi trường. Đồng thời ràng buộc nghĩa vụ pháp
lý của chủ dự án trong suốt quá trình họat động của dự án.
Quy
định ĐTM của Việt Nam lần đầu tiên được đưa trong Luật Bảo vệ môi trường năm
1993 và đến này đã có những điều chỉnh đáng kể. Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên
được quy định tại Điều 17, 18 Luật bảo vệ môi trường ban hành ngày 27/12/1993
và tiếp đó là Nghị định 175/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ
môi trường năm 1993. Các quy định này yêu cầu tất cả các dự án trong nước và đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam đều là đối tượng phải thực hiện ĐTM. Các dự án đã đi
vào hoạt động cũng cần lập báo cáo đánh giá tác động dưới dạng: “ kiểm toán môi
trường”.
Luật
bảo vệ môi trường năm 2005 ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương
riêng quy định về công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và các cam kết bảo vệ môi trường. Nếu như bước tiến hành báo cáo ĐTM
sơ bộ được coi là bắt buộc đối với các dự án thì khi có luật bảo vệ môi trường
năm 2005 thì không phải dự án nào cũng phải lập báo các TĐMT và Nghị định
21/2008/NĐ- CP của chính phủ ban hành ngày 28/2/2008 đã liệt kê một bảng danh mục các đối tượng gồm
162 loại dự án khác nhau phải lập báo cáo ĐTM. Hiện nay, theo nghị Định
29/2011/NĐ – CP và thông tư số 26/2011/ TT – BTNMT đã ban hành kèm theo một bảng
danh mục các dự án phải lập báo cáo ĐTM gồm 146 loại dự án.
Căn
cứ theo Điều 18 Luật BVMT 2005 quy định về đối tượng phải lập báo cáo ĐTM, các
đối tượng phải lập báo cáo bao gồm: Dự án công trình quan trọng quốc gia;dự án
có sử dụng một phần diện tích đất hoặc có ảnh hưởng xấu tới khu bảo tồn thiên
nhiên, vườn quốc gia, các khu di tích lịch sử - văn hóa, di sản tự nhiên, danh
lam thắng cảnh đã được xếp hạng; dự án
có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới nguồn nước lưu vực sông, vùng ven biển, vùng có hệ
sinh thái được bảo vệ; dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất, cụm làng nghề; dự án xây dựng mới đô
thị, khu dân cư tập trung; dự án khai thác, sử dụng nước dưới đất, tài nguyên
thiên nhiên quy mô lớn; dự án có tiềm ẩn nguy cơ lớn gây tác động xấu tới môi
trường.
Mặt
khác, Nghị định 29/2011/NĐ-CP quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh
giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường còn đưa ra danh mục đối tượng
phải lập ĐTM tại Phụ lục II nghị định này. Như vậy, có thể thấy đối tượng phải
lập báo cáo ĐTM cho dự án của mình hay không còn phải căn cứ vào địa điểm thực
hiện dự án, quy mô, tính chất họat động của dự án.
Căn cứ theo Điều 19 Luật BVMT 2005 có
quy định: “1. Chủ dự án quy định tại Điều
18 của Luật này có trách nhiệm lập báo cáo đánh giá tác động môi trường trình
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
2.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải được lập đồng thời với báo cáo nghiên
cứu khả thi của dự án.
3.
Chủ dự án tự mình hoặc thuê tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường và chịu trách nhiệm về các số liệu, kết quả nêu trong báo cáo
đánh giá tác động môi trường.
4.
Trường hợp có thay đổi về quy mô, nội dung, thời gian triển khai, thực hiện,
hoàn thành dự án thì chủ dự án có trách nhiệm giải trình với cơ quan phê duyệt;
trường hợp cần thiết phải lập báo báo đánh giá tác động môi trường bổ sung.
5. Tổ chức dịch
vụ tư vấn lập báo cáo đánh giá tác động môi trường phải có đủ điều kiện về cán bộ
chuyên môn, cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết”. ĐTM xem xét việc
thực hiện đề án sẽ gây ra những vấn đề gì đối với đời sống của con người tại
khu vực dự án, tới kết quả của chính dự án và các họat động khác tại vùng đó.
Sau dự báo của ĐTM phải xác định các biện pháp làm giảm đến mức tối thiểu các
tác động tiêu cực, làm cho dự án thích hợp với môi trường của nó.
Mặt khác, căn cứ theo khoản 2, 3 Điều 12 Nghị
định 29/2011/NĐ – CP quy định về trách nhiệm lập báo cáo ĐTM và trường hợp phải
lập lại báo cáo ĐTM: “2. Chủ dự án có
trách nhiệm lập hoặc thuê tổ chức có đủ điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 16
Nghị định này lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho dự án đầu tư của
mình. 3.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải lập lại trong các trường hợp sau đây:
a) Thay đổi địa điểm thực hiện dự án; b) Không triển khai thực hiện dự án trong
thời gian ba mươi sáu (36) tháng, kể từ thời điểm ban hành quyết định phê duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường; c) Thay đổi quy mô, công suất hoặc công
nghệ làm gia tăng mức độ tác động xấu đến môi trường hoặc phạm vi chịu tác động
do những thay đổi này gây ra.”
Nội dung báo cáo ĐTM được quy định tại
Điều 20 LBVMT, Điều 17 Nghị định 29/NĐ – CP quy định về đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường. Như vậy,
ta có thể thấy nội dung cơ bản của báo cáo ĐTM bao gồm: đánh giá hiện trạng môi
trường của dự án tại địa bàn hoạt động của dự án; dự báo những ảnh hưởng đến
môi trường do họat động của dự án gây ra; kiến nghị giải pháp xử lý về mặt môi
trường. Bên cạnh đó, để quan triệt công tác xã hội hóa bảo vệ môi trường và để
có ý kiến sát sao, khách quan hơn của những người dân địa phương và những người
chịu trực tiếp hậu quả môi trường của dự án, cụ thể khoản 8 Điều 20 Luật BVMT
quy định: “Ý kiến của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã), đại diện cộng
đồng dân cư nơi thực hiện dự án; các ý kiến không tán thành việc đặt dự án tại
địa phương hoặc không tán thành đối với các giải pháp bảo vệ môi trường phải
được nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.” Đây là những ý kiến
rất quan trọng của những người trong cuộc, có sự hiểu biết tường tận chất lượng
môi trường sống trên địa bàn thực hiện dự án. Mặt khác, tại khoản 1, 2 Điều 14
Nghị định 29/2011/NĐ – CP và Điều 12 Thông tư 26/2011 quy định chi tiết một số
điều của Nghị định 29/2011/NĐ – CP đã quy định chi tiết về vấn đề tham vấn ý
kiến trong quá trình lập báo cáo ĐTM. Như vậy,
ta có thể thấy quần chúng nhân dân có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng
tới dự án đó có được triển khai trên thực tế hay không, và họ là những người có
thể phải chịu ảnh trực tiếp từ dự án đầu tư, do đó ý kiến của họ có tính khả
thi, và góp phần hoàn thiện hơn các giải pháp giảm thiểu ôi nhiễm môi trường được
đưa ra trong báo cáo.
-
Hình thức thẩm định: Căn cứ theo Điều 21 Luật BVMT, khoản 1 Điều 18 Nghị định 29/2011/NĐ –
CP việc thẩm định báo cáo ĐTM có hai hình thức thẩm định thông qua Hội đồng
thẩm định hoặc tổ chức dịch vụ thẩm định. Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định
điều kiện và hướng dẫn hoạt động thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
của tổ chức dịch vụ thẩm định.
-
Cơ quan tổ chức thẩm định: Căn cứ theo khoản 7 Điều 21 Luật BVMT quy định trách
nhiệm tổ chức việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với dự án
được quy định như sau:
“a)
Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức hội đồng thẩm định hoặc tuyển chọn tổ chức
dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án do
Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định, phê duyệt; dự án liên
ngành, liên tỉnh;
b)
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức hội đồng thẩm định hoặc
tuyển chọn tổ chức dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối
với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt của mình, trừ dự án liên
ngành, liên tỉnh;
c)
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức hội đồng thẩm định hoặc tuyển chọn tổ chức
dịch vụ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với dự án trên địa
bàn quản lý thuộc thẩm quyền quyết định, phê duyệt của mình và của Hội đồng
nhân dân cùng cấp.” Tuy nhiên, riêng đối với họat động bảo vệ môi trường nước sông tại khoản 4 Điều 60 Luật
BVMT quy định: “Việc thẩm định báo cáo
đánh giá tác động môi trường đối với dự án phát triển mới khu sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đô thị, dân cư tập trung, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
có quy mô lớn trong lưu vực phải có sự tham gia ý kiến của Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh nơi có sông chảy qua.”
-
Hồ sơ xin thẩm định ĐTM: số lượng và mẫu hồ sơ đề nghị thẩm định được quy định
cụ thể tại Điều 6 Nghị định 29/2011/NĐ- CP quy định về đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường.
-
Thời hạn và kết quả thẩm định
Thời
hạn thẩm định quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 29/2011/NĐ – CP: “a) Báo cáo đánh giá tác động môi
trường thuộc thẩm quyền thẩm định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thời hạn
thẩm định tối đa là bốn mươi lăm (45) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đủ hồ
sơ hợp lệ. Trường hợp dự án phức tạp về tác động môi trường, thời hạn thẩm định
tối đa là sáu mươi (60) ngày làm việc;
b) Báo cáo đánh giá tác động môi trường không thuộc thẩm
quyền thẩm định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, thời hạn thẩm định tối đa là
ba mươi (30) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hợp lệ. Đối với những
dự án phức tạp về tác động môi trường, thời hạn thẩm định là bốn mươi lăm (45)
ngày làm việc.” Trong trường hợp báo cáo ĐTM không
được thông qua và phải thẩm định lại thì thời gian thẩm định được thực hiện lại
như quy định trên.
Kết
quả thẩm định ĐTM được quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật BVMT: “Trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được chỉnh sửa đạt yêu cầu theo kết
luận của hội đồng thẩm định, tổ chức dịch vụ thẩm định, thủ trưởng cơ quan quy
định tại khoản 1 Điều này phải xem xét, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá
tác động môi trường; nếu không phê duyệt thì phải trả lời bằng văn bản nêu rõ
lý do cho chủ dự án biết.” Như vậy, kết quả thẩm
định ĐTM thể hiện bằng quyết định phê duyệt hoặc nếu không phê duyệt phải trả lời
bằng văn bản nêu rõ lý do cho chủ dự án được biết.
Theo quy định tại
Điều 23 Luật BVMT quy định trách nhiệm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các
nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Như vậy, hoạt động sau thẩm
định báo cáo ĐTM đòi hỏi trách nhiệm của chủ dự án trong qua trình thực hiện dự
án phải thực hiện đúng nội dung bản báo cáo ĐTM và trách nhiệm của cơ quan phê
duyệt báo cáo ĐTM.
Xem thêm: Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản
1.
Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng các
quy định pháp luật về đánh giá tác động môi trường.
-
Về
nội dung của báo cáo ĐTM, có thể nói hoạt động ĐTM sẽ không đạt được hiệu quả
cao nếu như thiếu cơ chế huy động sự tham gia của cộng đồng vào họat động ĐTM.
Luật BVMT 2005 và tại khoản 1, 2 Điều 14 Nghị định 29/2011/NĐ – CP và Điều 12
Thông tư 26/2011 quy định chi tiết một số điều của Nghị định 29/2011/NĐ – CP đã
quy định chi tiết về vấn đề tham vấn ý kiến trong quá trình lập báo cáo ĐTM đã
cho thấy việc công khai thông tin về hoạt động ĐTM để người dân và các cơ quan
thông tấn, báo chí có điều kiện cùng cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân hữu
quan giám sát việc thực hiện ĐTM của chủ dự án từ đó nâng cao trách nhiệm của
các chủ dự án về bảo vệ môi trường.
-
Về
tổ chức thẩm định, các quy định về ĐTM cũng cho thấy chính sách mở rộng xã hội
hoá, huy động sự tham gia của các tổ chức có chuyên môn vào công tác lập cũng
như thẩm định báo cáo ĐTM. Ngoài các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về công
tác thẩm định còn có thêm các tổ chức dịch vụ thẩm định báo cáo ĐTM.
-
Hoạt
động sau thẩm định, thông qua việc thẩm định báo cáo ĐTM, hầu hết các dự án đều
giải trình được phương án xử lý nước thải, cam kết bảo đảm phí đầu tư cho việc
xây dựng, vận hành công trình và thực hiện chương trình giám sát môi trường. Đồng
thời căn cứ vào kết quả thẩm định, cơ quan có thẩm quyền nhà nước các cấp đã buộc
các cơ sở không đạt yêu cầi phải thay đổi công nghệ sản xuất, thay thế nguyên,
nhiên liệu
2.
Những hạn chế còn tồn tại khi thực hiện áp dụng các
quy đinh pháp luật về đánh giá tác động môi trường.
-
Quan
niệm sai lệch về yêu cầu ĐTM: bản chất của ĐTM là quá trình tìm hiểu, dự báo
các tác động môi trường và tác động xã hội tiêu cực, đề xuất giải pháp ngăn ngừa,
hạn chế các tác động tiêu cực đó khi thực hiện dự án. Tuy nhiên, các chủ dự án
khi thực hiện hoạt động này chủ yếu đều cho đó là một thủ tục trong quá trình
chuẩn bị hoặc thực hiện dự án. Do đó, việc lập báo cáo ĐTM chỉ làm lấy lệ, cho
đủ thủ tục để được thực hiện dự án. Nếu chủ dự án chú trọng tới báo cáo ĐTM
theo đúng bản chất của báo cáo này thì sẽ không có những xung đột xảy ra giữa
chủ dự án và nhân dân địa phương ở khu vực đó.
-
Về
tổ chức thẩm định, Bộ tài nguyên và môi trường chưa ban hành thông tư hướng dẫn
chi tiết điều kiện hoạt động của tổ chức dịch vụ tư vấn lập báo cáo ĐTM theo
nghị định 29/2011/NĐ – CP của chính phủ do đó rất khó khăn cho cơ quan quan lý
nhà nước địa phương khi xem xét điều kiện được phép làm tư vấn báo cáo ĐTM. Do
đó, nếu tổ chức tư vấn không đầy đủ năng lực hoặc năng lực còn hạn chế thì chất
lượng của bản báo cáo ĐTM sẽ thấp, có thể phải chỉnh sửa, bổ sung do đó tốn thời
gian, công sức và kinh phí cho chủ đầu tư và cơ quan có thẩm quyền.
-
Về
việc thẩm định và phê duyệt báo cáo ĐTM: thực tế hoạt động thẩm định chưa thực
sự trở thành một kênh phản biện trong sự đối trọng với những ưu tiên về dự án đầu
tư và phát triển kinh tế, nhất là đối với các dự án đầu tư quy mô lớn của nước
ngoài nhưng tiềm ẩn rủi ro cao về môi trường như xây dựng thuỷ điện, cảng biển,
khai thác khoáng sản, sửa chữa tàu biển, tái chế rác thải… Các ý kiến đánh giá của
hội đồng thẩm định hầu như chỉ mang tính chất tư vấn, tham khảo, quyết định
thông qua báo cáo ĐTM được định đoạt bởi hội đồng phê duyệt chứ không thuộc hội
đồng thẩm định. Trong trường hợp dự án được thông qua và khi đi vào hoạt động
gây ra những tác động và suy thoái môi trường thì sẽ khó xác định trách nhiệm
cho các bên liên quan.
-
Chất
lượng thẩm định, hiện nay nếu xét về tính đồng bộ, toàn diện thì các quy định về
ĐTM hiện nay pháp luật còn thiếu những quy định về cơ sở để đánh giá chất lượng
bản báo cáo ĐTM. Mặc dù, các quy định hiện hành dường như cũng đã cố gắng khắc
phục hạn chế này bằng các phương thức như quy định các chủ thể lập báo cáo ĐTM
phải đảm bảo những nội dung nhất định trong báo cáo ĐTM, quy định về việc áp dụng
các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường, quy định cách thức
thực hiện (như yêu cầu thành lập tổ công tác, yêu cầu về thành phần tham gia…),
quy định chi tiết về các bước thẩm định, chủ thể thẩm định v.v. Điều đó dẫn
đến một thực tế là việc thẩm định các báo cáo ĐTM chủ yếu dựa vào ý chí chủ
quan của người thẩm định, chưa có các căn cứ cụ thể để thẩm định và cơ chế pháp
lý cụ thể ràng buộc yêu cầu thẩm định.
-
Về
tính khả thi, cơ chế giám sát của cộng đồng: về mặt pháp lý, có thể nói các quy
định về thủ tục nhằm đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào quá trình lập, thẩm
định và phê duyệt báo cáo ĐTM hiện nay tương đối chặt chẽ. Tuy nhiên, hoạt động
lập báo cáo ĐTM là hoạt động có tính chuyên môn cao và với nhận thức của cộng đồng
dân cư thì khó có thể đánh giá được hết các vấn đề chuyên môn của các báo cáo
này. Các quy định hiện hành chỉ quy định các thủ tục, trình tự lấy ý kiến tham
vấn cộng đồng, không có bất kỳ cơ chế nào để hỗ trợ về chuyên môn nhằm nâng cao
nhận thức và khả năng của cộng đồng trong việc xem xét các nội dung của báo cáo
ĐTM. Không được hỗ trợ về các vấn đề chuyên môn, cộng đồng dân cư có thể gặp
khó khăn khi đưa ra ý kiến về các dự án triển khai tại địa bàn và trong nhiều
trường hợp, các ý kiến được đưa ra không xác đáng hoặc cản trở các dự án đã có
các phương án bảo vệ môi trường phù hợp.
-
Dựa
hoàn toàn vào danh mục quy định các dự án phải lập báo cáo ĐTM đã làm nảy sinh
nhiều lúng túng khi xuất hiện loại hình dự án mới không có trong danh mục thì
không xác định được có phải lập báo cáo ĐTM hay không.
Thứ nhất, cần
nghiên cứu hoàn thiện các quy định đảm bảo chất lượng của báo cáo ĐTM, trong đó
có việc đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng của báo cáo ĐTM. Việc đưa ra
các tiêu chí cụ thể về mặt nội dung đối với báo cáo ĐTM vừa đảm bảo tính minh
bạch của các quy định về lập và thẩm định báo cáo ĐTM, vừa làm cơ sở cho các tổ
chức, cá nhân lập báo cáo ĐTM, vừa là căn cứ cho việc thẩm định báo cáo.
Thứ hai, cần cụ
thể hoá các quy định về điều kiện chuyên môn, cơ sở vật chất, trang thiết bị
đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ lập báo cáo ĐTM nhằm đảm bảo năng lực cung
cấp dịch vụ của các tổ chức này và đảm bảo chất lượng của công tác ĐTM trên
thực tế.
Thứ ba, cần làm
rõ trách nhiệm môi trường của các chủ thể tham gia vào việc lập, thẩm định, phê
duyệt báo cáo ĐTM đảm bảo trong trường hợp các dự án được phê duyệt làm tổn hại
đến môi trường xuất phát từ chất lượng của báo cáo ĐTM thì sẽ có chủ thể phải
chịu trách nhiệm về hậu quả này. Cụ thể là trong trường hợp báo cáo ĐTM được
lập không đánh giá đầy đủ các tác động môi trường cũng như thiếu những giải
pháp cần thiết để đảm bảo hạn chế tác động tiêu cực của dự án đến môi trường mà
vẫn được phê duyệt thì sẽ xác định trách nhiệm của người phê duyệt, người thẩm
định và chủ dự án như thế nào, trong trường hợp dự án đó được triển khai và gây
thiệt hại cho môi trường, cho cộng đồng dân cư thì trách nhiệm thuộc về ai là
những vấn đề cần được làm rõ.
Thứ tư, cần có
những chế tài nghiêm khắc hơn đối với các vi phạm nghĩa vụ từ việc lập, thẩm
định, phê duyệt và thực hiện báo cáo ĐTM để đảm bảo tính răn đe đối với hành vi
vi phạm, bổ sung chế tài đình chỉ dự án và yêu cầu khôi phục hiện trạng để
tránh tình trạng có những chủ thể cố tình không lập báo cáo ĐTM nhưng vẫn triển
khai dự án gây ra những hậu quả môi trường không thể khắc phục được.
Các quy định về ĐTM có một vị trí tương đối quan trọng
trong hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường của Việt Nam và ngày càng được
quan tâm hoàn thiện. Điều đó chứng tỏ sự nhìn nhận về vai trò của ĐTM như một
công cụ quan trọng để thực hiện công tác quản lý đối với môi trường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét