Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

Trình bày quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện kinh doanh đối với một ngành nghề kinh doanh có điều kiện cụ thể (do sinh viện tự chọn)

Trong giai đoạn hiện nay, sự đa dạng và phức tạp của ngành, nghề kinh doanh cũng là những cơ hội cho họat động kinh doanh phát triển mở rộng. Nhưng bản chất kinh doanh là hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, đem lại lợi ích cho cá nhân hoặc cho tổ chức. Do đó, tự các tổ chức, cá nhân kinh doanh không thể bảo đảm lợi ích chung của toàn xã hội, hoạt động kinh doanh của các chủ thể có nguy cơ xâm hại lợi ích của chủ thể khác. Vì mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp mình, chủ thể kinh doanh có thể không loại trừ những ngành, nghề kinh doanh nào mà nhu cầu xã hội đặt ra. Thực tế, không phải nhu cầu nào cũng chính đáng, có những nhu cầu có nguy cơ làm băng hoại giá trị đạo đức, ảnh hưởng tới trật tự, an toàn xã hội nên việc cung ứng các dịch vụ này xâm hại tới trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần có sự quản lý, điều hành của nhà nước.Việc quy định điều kiện ngành nghề kinh doanh không có nghĩa là hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp mà là tạo môi trường kinh doanh minh bạch cho các doanh nghiệp có cơ sở loại trừ đối với một số ngành nghề, còn lại có thể tự do đăng kí kinh doanh ở tất cả các ngành, nghề khác. Tùy thuộc vào mức độ tác động của ngành, nghề kinh doanh đến trật tự an toàn xã hội và lợi ích của cộng đồng, Nhà nước đưa ra các quy định về ngành, nghề cấm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh đòi hỏi phải có điều kiện để các doanh nghiệp có thể hoạt động mà không gây những tác hại, vi phạm lợi ích của cộng đồng. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài 01: “Trình bày quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện kinh doanh đối với một ngành nghề kinh doanh có điều kiện cụ thể (do sinh viện tự chọn)”



NỘI DUNG

Căn cứ theo khoản 2 Điều 7 LDN 2005 quy định: “Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác.”
-         Thẩm quyền ban hành các điều kiện kinh doanh thuộc về chính phủ.
-         Điều kiện kinh doanh thể hiện bằng điều kiện về vốn; điều kiện về cơ sở vật chất; điều kiện về năng lực chuyên môn; điều kiện về an toàn và bảo đảm rủi ra; điều kiện phát triển kinh tế nói chung.
-Điều kiện kinh doanh được thể hiện bằng các hình thức: giấy phép kinh doanh; giấy chứng nhận đủ điều kiện đăng kí kinh doanh; giấy chứng chỉ hành nghề; giấy chứng nhận về bảo hiểm nghề nghiệp; giấy chứng nhận vốn pháp định và các hình thức khác.
         Căn cứ theo khoản 2 Điều 7 LDN 2005 và khoản 2 Điều 8 Nghị định 102/2010/NĐ- CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật doanh nghiệp 2005 thì điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới các hình thức:
-  Giấy phép kinh doanh
Giấy phép kinh doanh là chứng thực pháp lý do một cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho chủ thể kinh doanh, khi chủ thể đáp ứng yêu cầu của ngành nghề kinh doanh.
-  Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
(1)     Bàn về quyền tự do kinh doanh/ Bùi Ngọc Cường - tạp chí khoa học pháp lý 2002 (tr3-10)
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoàn toàn độc lập với giấy phép kinh doanh. Doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau đó với từng loại ngành, nghề yêu cầu thì phải xin giấy phép chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh.
-  Chứng chỉ hành nghề
Căn cứ theo Điều 9 Nghị định 102/2010/NĐ – CP quy định: “Chứng chỉ hành nghề quy định tại khoản 2 Điều 7 của Luật Doanh nghiệp là văn bản mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định.
Chứng chỉ hành nghề được cấp ở nước ngoài không có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành hoặc Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
2. Ngành, nghề kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề và điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề tương ứng áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành có liên quan.
3. Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề phải có chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật, việc đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký bổ sung ngành, nghề kinh doanh đó phải thực hiện theo quy định dưới đây:
a) Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật yêu cầu Giám đốc doanh nghiệp hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề, Giám đốc của doanh nghiệp hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh đó phải có chứng chỉ hành nghề.
b) Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật yêu cầu Giám đốc và người khác phải có chứng chỉ hành nghề, Giám đốc của doanh nghiệp đó và ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó phải có chứng chỉ hành nghề.
c) Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật không yêu cầu Giám đốc hoặc người đứng đầu cơ sở kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề, ít nhất một cán bộ chuyên môn theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó phải có chứng chỉ hành nghề.”
  Như vậy, đối với những ngành, nghề riêng thì cũng có những yêu cầu về chứng chỉ hành nghề khác nhau như: yêu cầu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cần có chứng chỉ hành nghề; tất cả thành viên tham gia đều phải có chứng chỉ hành nghề,…
-  Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
Mỗi cá thể có những sai sót và những rủi ro nhất định. Lúc này công ty bảo hiểm sẽ có trách nhiệm chi trả đối với những sai sót và rủi ro nói trên nếu như những cá nhân, tổ chức và công ty bảo hiểm có thiết lập một hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cũng chính là một hợp đồng bảp hiểm. Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp là giấy chứng nhận sự tồn tại hợp pháp của hợp đồng bảo hiểm này. Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp thường được áp dụng đối với một số ngành nghề chuyên môn đòi hỏi trách nhiệm cao của người hành nghề như: kiến trúc sư và kĩ sư tư vấn trong ngành xây dựng, công chứng viên trong nghề công chứng…
-  Xác nhận vốn pháp định
Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp. Theo quy định của pháp luật thì không phải ngành nghề nào cũng cần có yêu cầu vốn pháp đinh. Khoản 1 Điều 10 Nghị định 102/2010 NĐ- CP quy định: “Ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định, mức vốn pháp định cụ thể, cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về vốn pháp định, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định, hồ sơ, điều kiện và cách thức xác nhận vốn pháp định áp dụng theo các quy định của pháp luật chuyên ngành.”
-  Chấp thuận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
-  Các yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh doanh ngành, nghề đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
         Chính phủ định kì rà soát, đánh giá lại toàn bộ hoặc một phần các điều kiện kinh doanh, bãi bỏ hoặc kiến nghị bãi bỏ các điều kiện không còn phù hợp, sửa đổi hoặc kiến nghị sửa đổi các điều kiện bất hợp lý; ban hành hoặc kiến nghị ban hàng điều kiện kinh doanh mới theo yêu cầu quản lý nhà nước. Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp không được quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh. Phát hiện và xử lý các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thầm quyền có hành vi vi phạm.
         Kinh doanh dịch vụ bất động sản là các hoạt động hỗ trợ kinh doanh bất động sản và thị trường bất động sản, bao gồm các dịch vụ môi giới bất động sản, định giá bất động sản, sàn giao dịch bất động sản, tư vấn bất động sản, đấu giá bất động sản, quảng cáo bất động sản, quản lý bất động sản. (khoản 3 Điều 4 Luật kinh doanh bất động sản 2007).
         Điều kiện đối với tổ chức cá nhân kinh doanh bất động sản được quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật kinh doanh bất động sản năm 2007 : “Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải có ít nhất một người có chứng chỉ môi giới bất động sản; khi kinh doanh dịch vụ định giá bất động sản phải có ít nhất hai người có chứng chỉ định giá bất động sản; khi kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất hai người có chứng chỉ môi giới bất động sản, nếu có dịch vụ định giá bất động sản thì phải có ít nhất hai người có chứng chỉ định giá bất động sản.”
- Đối với dịch vụ môi giới Bất động sản cần 1 chứng chỉ môi giới Bất động sản .
- Đối với dịch vụ định giá Bất động sản cần 2 chứng chỉ định giá Bất động sản.
- Đối với dịch vụ Sàn giao dịch Bất động sản cần có 3 chứng chỉ môi giới bất động sản và 4 chứng chỉ định giá bất động sản và 1 giấy chứng nhận điều hành sản giao dịch Bất động sản, chứng nhận này do đơn vị đào tạo cấp.
- Đối với dịch vụ đấu giá Bất động sản cần có thẻ đấu giá viên do Sở tư pháp cấp.
-  Đối với dịch vụ quảng cáo, quản lý, tư vấn bất động sản thì không yêu cầu phải có chứng chỉ hoặc chứng nhận như trên.
         Căn cứ theo Nghị định 153/2007/NĐ- CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều luật kinh doanh bất động sản. Theo khoản 1 Điều 14 quy định điều kiện cấp chứng chỉ môi giới bất động sản. Theo khoản 1 Điều 15 quy định điều kiện cấp chứng chỉ định giá bất động sản. Theo quy tại khoản 2 Điều 21 về điều kiện đối với người quản lý, điều hành sàn giao dịch bất động sản : “Có giấy chứng nhận đã hoàn thành khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý, điều hành sàn giao dịch bất động sản”.
Căn cứ theo Điều 13 Luật kinh doanh bất động sản quy định trách nhiệm quản lý của nhà nước về họat động kinh doanh bất động sản. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bất động sản. Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bất động sản. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Xây dựng thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bất động sản theo phân công của Chính phủ. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bất động sản trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
Theo Điều 17 luật kinh doanh bất động sản 2007 quy định xử lý vi phạm:
- Tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bất động sản không có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì bị đình chỉ hoạt động, xử phạt hành chính và truy thu thuế theo quy định của pháp luật.
- Cá nhân không có chứng chỉ môi giới bất động sản, chứng chỉ định giá bất động sản mà thực hiện môi giới bất động sản, định giá bất động sản thì bị đình chỉ hoạt động, xử phạt hành chính và không được cấp chứng chỉ trong thời hạn ba năm, kể từ ngày ra quyết định xử phạt.
- Cá nhân được cấp chứng chỉ môi giới bất động sản, chứng chỉ định giá bất động sản không thực hiện đúng nội dung chứng chỉ thì bị xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền; nếu tái phạm lần đầu thì còn bị đình chỉ hoạt động một năm, nếu tái phạm lần thứ hai thì còn bị thu hồi chứng chỉ và không được cấp lại trong thời hạn năm năm, kể từ ngày ra quyết định xử phạt.
- Chính phủ quy định cụ thể việc xử phạt hành chính trong hoạt động kinh doanh bất động sản.

KẾT LUẬN

Nhà nước đã tách việc đăng kí kinh doanh ra khỏi thời điểm bắt đầu kinh doanh. Điều đó có nghĩa là, sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp vẫn chưa được đi vào họat động mà chỉ khi nào đủ điều kiện kinh doanh trong thực tế, nhà nước cấp giấy phép hoặc xác nhận đủ điều kiện, doanh nghiệp mới chính thức được đi vào họat động. Việc pháp luật quy định một số ngành nghề có điều kiện để các doanh nghiệp có thể hoạt động mà không gây những tác hại, vi phạm lợi ích của cộng đồng.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét