Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra

Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra

3.1. Có thiệt hại xảy ra

          Thiệt hại là sự giảm sút những lợi ích về vật chất, danh dự, uy tín của tổ chức; vật chất, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe…của cá nhân, những thiệt hại này được xác định bằng một giá trị vật chất nhất định, cụ thể là bằng một khoản tiền. Hiện nay, khái niệm thiệt hại được mở rộng với nội dung mới là thiệt hại về tinh thần được quy định tại Điều 310 BLDS: “Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần”.
          Thiệt hại do NNHCĐ gây ra bao gồm những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe và tổn thất về tinh thần, không có thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bởi chủ thể gây thiệt hại là những vật vô tri, vô giác, khách thể mà nó xâm phạm là sức khỏe, tính mạng, tài sản của cá nhân, tài sản của tổ chức.
          Thiệt hại là điều kiện tiền đề, là cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH, nếu không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường.
BTTH do NNHCĐ gây ra là một dạng bồi thường trong trường hợp cụ thể. Do vậy, về nguyên tắc thiệt hại phải bồi thường bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại cho tính mạng được quy định tại 608,609,610 BLDS 2005.
Thiệt hại về tài sản là thiệt hại vật chất tính toán được. Theo quy định tại điều 608 BLDS thì thiệt hại do tài sản bị xâm phạm được bồi thường gồm: tài sản bị mất, bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác ddinhjd dược thì áp dụng mức thu nhập trung bình của người lao động cùng loại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại. và tùy từng trường hợp, tòa án buộc người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
          Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng; chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí hợp lý cho việc mai tang; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, tùy vào từng trường hợp mà Tòa án quyết định người gây thiệt hại do xâm phạm tính mạng phải bồi thường một khoản tiền bù đắp về tinh thần cho những người thân thiết gần gũi nhất của người bị thiệt hại như người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

3.2. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ và thiệt hại xảy ra

          Quan hệ giữa sự hoạt động của NNHCĐ và thiệt hại xảy ra có mối quan hệ phổ biến, biện chứng. Sự hoạt động tự thân của NNHCĐ là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại, không có yếu tố lỗi của con người. Thiệt hại xảy ra chính là hệ quả của sự hoạt động tự thân đó. Như vậy, mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của NNHCĐ và thiệt hại xảy ra là căn cứ xác định trách nhiệm BTTH của CSH nguồn NNHCĐ. Việc xác định này có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay không trách nhiệm dân sự của CSH nguồn NNHCĐ. Trong trường hợp CSH có lỗi trong việc để NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác thì ngoài trách nhiệm BTTH về dân sự, CSH hoặc người có lỗi trong việc để NNHCĐ gây ra thiệt hại có thể còn phải chịu trách nhiệm hình sự.
          Trong một số trường hợp mặc dù về mặt hình thức thì thiệt hại đó cũng do nguyên nhân sự hoạt động của NNHCĐ nhưng vẫn không xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Bởi vì, tuy có hoạt động của NNHCĐ nhưng hoạt động này có sự tác động bởi hành vi lỗi của con người chứ không phải tự thân NNHCĐ gây ra. Ví dụ: Để bảo vệ ao cá, ông A đã chăng dây điện bao quanh ao. Ông B vô tình vướng phải dây điện, bị điện giật chết. Như vậy, trong trường hợp này tuy ông B chết do tác động của dòng diện nhưng cái chết của ông B lại do hành vi trái pháp luật của ông A nên ông A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về lỗi cố ý gián tiếp giết người.

3.3. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ

Pháp luật bảo vệ những quyền, lợi ích chính đang của mọi chủ thể trong xã hội và trong các quan hệ pháp luật. Những quyền và lợi ích chính đáng của mọi cá nhân và tổ chức, của nhà nước đều được bảo vệ bằng pháp luật. Việc gây thiệt hại trái pháp luật là  những thiệt hại do sự hoạt động tự thân của NNHCĐ làm giảm sút những lợi ích vật chất nhất định cho thế giới vật chất xung quanh, pháp luật quy định những thiệt hại này không được xảy ra. Nếu do hành vi trái pháp luật của con người gây ra thì không thể áp dụng trách nhiệm bồi thường hại do NNHCĐ gây ra mà áp dụng trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung.
Thiệt hại liên quan đến NNHCĐrất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau, chỉ áp dụng trách nhiệm BTTH do nguồn NNHCĐ gây ra khi thỏa mãn:
Thứ nhất, những sự vật được coi là NNHCĐ phải đang trong tình trạng vận hành như phương tiện vận tải cơ giới đang tham gia giao thông, nhà máy cộng nghiệp đang hoạt động mà bị chập, cháy nổ điện. Nếu thiệt hại trong trường hợp NNHCĐ ở trạng thái tĩnh thì đó không phải là thiệt hại do NNHCĐ gây ra.
Thứ hai, phải do chính sự tác động của bản thân nguồn NNHCĐ gây ra hoặc do nội tại của NNHCĐ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Khi có hoạt động của NNHCĐ gây ra thiệt hại, thì ngoài việc xác định xem việc gây ra thiệt hại đó là do hành vi của con người tác động vào NNHCĐ gây ra thiệt hại để đạt được mục đích của mình hay do chính bản thân NNHCĐ trong quá trình hoạt động tự gây ra thiệt hại để áp dụng trách nhiệm BTTH, chúng ta phải xem xét hoạt động gây ra thiệt hại của NNHCĐ có trái pháp luật không. Bởi vì có những trường hợp, mặc dù NNHCĐ có hoạt động gây ra thiệt hại nhưng những thiệt hại đó được sự cho phép của pháp luật thì hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ không trái với quy định của pháp luật. Như vậy, không phải mọi trường hợp hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ đều trái pháp luật.

3.4. Lỗi trong TNBTTH do NNHCĐ gây ra

          Lối là một trong 4 điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Hiện nay tồn tại nhiều quan điểm về khái niệm lỗi, trong đó chú ý đến hai quan điểm:
1. Lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra
2. Khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc thực hiện nghĩa vụ của mình, theo đó, một cá nhân hay pháp nhân được coi là không có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp để thực hiện đúng nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện lưu thông dân sự yêu cầu đối với họ.
          Điều 308 BLDS chia lỗi thành hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo điều luật trên thì lỗi trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được pháp luật quy định  về cơ sở xác định lỗi và hình thức lỗi.
          Khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải BTTH ngay cả khi không có lỗi”.
          Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề có hay không có yếu tố lỗi khi xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra:
          Quan điểm thứ nhất: Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra chỉ phát sinh khi tự thân NNHCĐ gây ra thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh, việc gây ra thiệt hại là do hoạt động nội tại của NNHCĐ và hoàn toàn không có lỗi của con người.
          Nếu có sự tác động của con người thì con người có lỗi trong việc để NNHCĐ gây thiệt hại thì áp dụng trách nhiệm BTTH nói chung cho chủ sở hữu và người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ.
Quan điểm thứ hai: Cứ có thiệt hại xảy ra và có sự tham gia của NNHCĐ thì trách nhiệm BTTH do NNHCĐ của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ sẽ phát sinh, cho dù chủ sở hữu có lỗi hay không có lỗi. Tất cả thiệt hại do NNHCĐ gây ra đều áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Quan điểm này có ưu điểm là kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể bị xâm phạm quyền và lợi ích nhưng có nhược điểm là quy kết mọi trách nhiệm BTTH cho chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ, bởi vì có những trường hợp thiệt hại xảy ra là do hành vi trái pháp luật, do lỗi của chủ thể khác.
          Quan điểm thứ ba, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra bao gồm cả trường hợp thiệt hại do NNHCĐ gây ra có một phần lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng trong việc quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ, nhưng hành vi không tuân thủ các quy định về quản lý, trông giữ, bảo quan vận hành NNHCĐ của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ chỉ là thứ yếu đối với thiệt hại xảy ra. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành NNHCĐ thì áp dụng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ dù có chứng minh được là mình không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì vẫn không được miễn giảm trách nhiệm BTTH.

          Như vậy, cần phải xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là trách nhiệm không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của chủ sở hữu. Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu có lỗi gián tiếp thì thiệt hại xảy ra do nguyên nhân chính là hoạt động của NNHCĐ. Lỗi của CSH trở thành điều kiện tác động đến việc xảy ra thiệt hại nhanh hơn mà thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét