Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

Năng lực chịu trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra

Năng lực chịu trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của chủ thể là khả năng chủ thể đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi từ thiệt hại xảy ra. Chủ thể BTTH do NNHCĐ gây ra có thể là cá nhân, hoặc pháp nhân, tổ chức. Tuy nhiên BLDS 2005 chỉ quy định năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân.
          Tại Điều 606 BLDS 2005 và được Nghị quyết 03 hướng dẫn tại mục 3 phần I thì năng lực chịu trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra của cá nhân bao gồm:
          Thứ nhất, người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự BTTH do NNHCĐ gây ra bằng tài sản của mình.
Thứ hai, đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, việc sở hữu và sử dụng NNHCĐ là ít gặp, nhưng không phải không có, nếu áp dụng điều luật trên để buộc cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường thì sẽ rơi vào gượng ép, bởi chủ sở hữu NNHCĐlà người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu cha mẹ, người giám hộ không phải là người quản lý NNHCĐ thì họ hoàn toàn không có lỗi. Như vậy, trách nhiệm bồi thường vẫn thuộc về người chưa thành niên hoặc người quản lý NNHCĐkhi có thiệt hại xảy ra.
          Thực tế, có những thiệt hại xảy ra không liên quan đến trạng thái tâm lý hay nhận thức của CSH, sự kiện gây ra thiệt hại nằm ngoài mong muốn và sự kiểm soát của chủ sở hữu, vì vậy, để nâng cao trách nhiệm của chủ sở hữu trong chiếm hữu, sử dụng tài sản và đảm bảo tính công bằng thì chủ sở hữu phải BTTH do tài sản của mình sở hữu hoặc thuộc quyền quản lý của mình.

5. Những trường hợp loại trừ

5.1. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi  cố ý của người bị thiệt hại

          Lỗi cố ý của người bị thiệt hại là người bị thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình gây thiệt hại cho mình nhưng vẫn thực hiện và mong muốn thiệt hại đó xảy ra với mình. Đây hoàn toàn là ý muốn chủ quan của người bị thiệt hại, nên pháp luật quy định trường hợp này người gây thiệt hại không phải bồi thường. Điều 617 BLDS quy định: “Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường”.

5.2. Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết

Một sự kiện được coi là bất khả kháng nếu đáp ứng đủ ba điều kiện: xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được; không thể khắc phục được và đã áp dung mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép để ngăn chặn thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 614 BLDS 2005 thì “người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. Để một hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết thì hành vi đó phải thỏa mãn các điều kiện:
- Nguy cơ đang tồn tại thực tế, hiển nhiên và không thể chống lại được
- Lợi ích của nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của người đó hoặc người khác bị đe dọa.
- Để ngăn ngữa thiệt hại xảy ra, không còn cách nào khác là phải gây ra một thiệt hại nhỏ hơn.

Như vậy, thiệt hại trong hai trường hợp trên, chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐkhông phải bồi thường. Việc chứng minh thiệt hại xảy ra do bất kahr kháng hay trong tình thế cấp thiết đòi hỏi những xem xét, đánh giá cụ thể toàn diện, để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại cũng như người gây ra thiệt hại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét