Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2016

TRÁCH NHIỆM BTTH DO NHHCĐ GÂY RA

TRÁCH NHIỆM BTTH DO NHHCĐ GÂY RA

1. Khái niệm NNHCĐ, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra

1.1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ

Theo quy định tại khoản 1 điều 623 BLDS 2005 thì:
“1. NNHCĐ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các NNHCĐkhác do pháp luật quy định.
          Khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2005 chỉ liệt kê những NNHCĐtrong thực tế và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Để xác định NNHCĐ phải căn cứ vào Khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó”.
          Theo quy định nêu trên, có thể hiểu khái quát NNHCĐlà những đối tượng mà khi sử dụng, bảo quan, cất giữ trông coi luôn tiềm ẩn sự nguy hiểm, sự rủi ro cao đối với tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người. Tính nguy hiểm của NNHCĐẩn chứa trong các đặc điểm lý, hóa, trong yêu cầu kỹ thuật và các điều kiện an toàn khi sử dụng các đối tượng đó. Có những loại đối tượng dễ nhận ra tính chất nguy hiểm cao độ của chúng, chẳng hạn như thú dữ, chất độc, chất dễ cháy. Tuy nhiên, một số những đối tượng phải có một số tính chất chúng sau đây mới được coi là NNHCĐ:
Thứ nhất, hoạt động của các đối tượng mang tính chất nguy hiểm cao độ cho mọi người xung quanh thường là những hoạt động hợp pháp, chỉ khi NNHCĐ gây ra thiệt hại cho thế giới vật chất xung quanh thì hoạt động đó mới bị coi là bất hợp pháp. Các đối tượng được quy định là NNHCĐ nêu trên phần lớn là những đối tượng có thiết kế kỹ thuật, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như phương tiện vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy chế tạo, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ…Vấn đề không phải tất cả các phương tiện kỹ thuật khi sử dụng đều mang tính chất nguy hiểm cao độ mà chỉ những hoạt động mang tính chất cơ giới hoặc những đối tượng khác có đặc tính lý, hóa điển hình mới coi là NNHCĐ.
Thứ hai, hoạt động của đối tượng được coi là NNHCĐ cho thế giới vất chất xung quanh được thể hiện trong việc sử dụng chúng, con người không thể kiểm soát được một cách chặt chẽ, toàn diện. Điều này được thể hiện trong việc con người chỉ bảo đảm được sự giám sát cần thiết nhờ những biện pháp kỹ thuật an toàn. Tuy nhiên, những biện pháp kỹ thuật an toàn thường lạc hậu hơn, không đồng bộ với kỹ thuật chung hay không tính toán hết được các sự cố kỹ thuật có thể xảy ra trong quá trình sử dụng chúng. Chính vì vậy, sử dụng kỹ thuật chung bao hàm tính chất nguy hiểm của việc bất ngờ xảy ra thiệt hại.
Như vậy, từ sự phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về NNHCĐ nhự sau: NNHCĐ là những vật, thú dữ…luôn tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại bất ngờ cho con người hoặc gây thiệt hại về tài sản mà không phải bao giờ con người cũng có thể kiểm soát, lường trước được và có thể ngăn chặn được.

1.2. Khái niệm BTTH do NNHCĐ gây ra

          Việc phân biệt trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra và trách nhiệm BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định ai là người phải bồi thường. Về nguyên tắc, chủ sở hữu NNHCĐ phải bồi thường thiệt hại do NNHCĐ gây ra kể cả trong trường hợp chủ sở hữu NNHCĐ không có lỗi. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2 Điều 623 BLDS thì trong trường hợp CSH NNHCĐ đã giao NNHCĐ cho người khác chiếm hữu, sử dụng thông qua một hợp đồng cho thuê, cho mượn thì trong thời gian người thuê, người mượn sử dụng NNHCĐ mà gây thiệt hại cho người khác hoặc tài sản của người khác thì người đang chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải bồi thường, trừ trường hợp chủ sở hữu và người thuê, người mượn có thỏa thuận khác. Chủ sở hữu giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ thông qua hợp đồng lao đồng, thì chủ sở hữu có trách nhiệm BTTH khi NNHCĐ gât ra thiệt hại cho người khác. Vì trường hợp này, CSH đồng thời là người đang quản lý khai thác NNHCĐ.
          Như vậy, pháp luật quy định cho dù CSH hoặc người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ hợp pháp phải BTTH khi NNHCĐ gây ra cho người và vật khác kể cả khi họ không có lỗi trong việc NNHCĐ gây ra thiệt hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp pháp luật không áp dụng trác nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là:
1. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
2. Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
          Tại khoản 3 Điều 623 BLDS 2005 có quy định CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ phải bồi thường cho người bị thiệt hại khi NNHCĐ gây ra thiệt hại có người đó cho dù CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng có lỗi hay không lỗi. Như vậy, có gì khác biệt giữa hành vi có lỗi và không có lỗi của CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ khi NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác? Sự khác biệt này được thể hiện ở những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau.
          Nếu CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác mà không có lỗi khi NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác thì vẫn có trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra theo trách nhiệm dân sự, nhưng người này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ mà có lỗi vô ý hoặc cố ý để NNHCĐ gây thiệt hại cho người khác thì ngoài trách nhiệm dân sự là bồi thường toàn bộ thiệt hại, họ có thể còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
          Tóm lại, bản chất của trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là do tự thân của NNHCĐ, nếu CSH, người được CSH giao chiếm hữu có lỗi thì chỉ là lỗi gián tiếp. Họ không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gây thiệt hại của NNHCĐ. Tuy nhiên, vì NNHCĐ là tài sản của CSH hoặc được người chiếm hữu sử dụng khai thác cho nên nếu có thiệt hại do NNHCĐ gây ra thì họ phải BTTH.
          Khi NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác thì CSH, người chiếm hữu hợp pháp NNHCĐ sẽ phải có trách nhiệm BTTH trừ những trường hợp mà pháp luật quy định trừ trách nhiệm BTTH như trường hợp thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
          Vậy trong trường hợp NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp (ngay tình và không ngay tình) thì ai sẽ có trách nhiệm BTTH khi NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác? Tại Khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 quy định nếu NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải BTTH. Theo quy định này thì trách nhiệm của CSH NNHCĐ không phát sinh khi NNHCĐ của CSH bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại cho người thứ ba. Trường hợp này thường xảy ra trong đời sống xã hội khi mà NNHCĐ của CSH bị trộm, cắp hoặc dưới các hình thức khác thuộc hành vi chiếm đoạt trái pháp luật.
          Tuy nhiên cũng tại Khoản 4 Điều 623 quy định nếu CSH, người được giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp NNHCĐ cũng có lỗi trong việc để NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới BTTH. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, CSH, người chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ  giao NNHCĐ cho một người khác không có đủ năng lực hành vi, không có đủ quyền chiếm hữu, sử dụng NNHCĐ và NNHCĐ gây thiệt hại cho người thứ ba thì theo khoản 4 nói trên, CSH, người chiếm hữu sử dụng NNHCĐ phải liên đới BBTH cho người thứ ba. Trường hợp này nguyên nhân chủ yếu là do chính NNHCĐ gây ra, để nâng cao trách nhiệm của CSH, người chiếm hữu NNHCĐ thì pháp luật quy định họ phải liên đới bồi thường.
          Từ những phân tích trên, BTTH do NNHCĐ gây ra được hiểu là trách nhiệm của CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, người chiếm hữu bất hợp pháp phải BTTH, khi hoạt động tự thân của NNHCĐ gây ra thiệt hại cho người khác, kể cả trường hợp CSH, người được CSH giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp hoặc người chiếm hữu bất hợp pháp NNHCĐ không có lỗi trong việc NNHCĐ gây ra thiệt hại.

2. Đặc điểm của BTTH do NNHCĐ gây ra

          Trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là một trong trường hợp cụ thể của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nên nó cũng có đặc điểm chung của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đó là: có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi; Ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân…Ngoài ra trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra còn có những đặc điểm riêng, thể hiện tính chất của loại trách nhiệm này:
          Thứ nhất, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là trách nhiệm của CSH, người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng chuyển giao tài sản và của người chiếm hữu trái pháp luật đối với những thiệt hại do NNHĐ mà mình đang quản lý gây ra.
          Khác với trách nhiệm BTTH nói chung, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra không do hành vi của con người mà do tài sản của con người, những vật vô tri, vô giác gây ra. Vì CSH, người chiếm hữu đang khai thác sử dụng tài sản đó nên phải BTTH theo nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu.
          Thứ hai, trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra phát sinh không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Lỗi là một trong 4 điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH, nhưng đối với trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra thì lỗi không phải là điều kiện cần phải có; trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra có thể phát sinh mà không cần đến lỗi của CSH NNHCĐ. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra là hoạt động của NNHCĐ. Hoạt động của NNHCĐ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của NNHCĐ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người mà tự thân NNHCĐ trong quá trình hoạt động gây ra thiệt hại cho người khác. Thế nhưng trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra cũng không loại trừ khả năng thiệt hại có thể một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận dụng NNHCĐ nhưng hành vi trông giữ, vận hành NNHCĐ không phải là nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại và lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại.

          Thứ ba, thiệt hại do NNHCĐ gây ra không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Chủ thể gây ra thiệt hại trong trách nhiệm BTTH do NNHCĐ gây ra không phải là con người mà do tài sản nên nên không thể có hành vi xâm phạm, làm tổn hại, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của các chủ thể khác.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét