Thứ Tư, 29 tháng 6, 2016

ĐỀ SỐ 3 BÀI TẬP NHÓM MÔN LAO ĐỘNG

ĐỀ BÀI
BÀI TẬP SỐ 3: A là nhân viên tiếp thị cử công ty Kline 100% vốn nước ngoài kinh doanh sản phẩm máy lọc nước có trụ sở tại quận H tỉnh T. Trước khi kí hợp đồng anh đã phải thử việc 3 tháng tại công ty. Tại HĐLĐ hai bên kí ngày 1/5/2005 có thỏa thuận thời hạn hợp đồng là 5 năm nhưng nếu người lao động làm tốt có thể kéo dài. Hai bên cũng thỏa thuận: HĐLĐ sẽ chấm dứt nếu công ty phát hiện ra sự thiếu trung thực trong công việc. Ngày 10/7/2008 khi kiểm tra công việc của nhân viên tiếp thị, tổ trưởng phát hiện ra 02 máy lọc nước giao cho địa lý không phù hợp chủng loại và không có giấy giao hàng. Khi được hỏi, A đã thú nhận lấy máy tương tự của công ty khác dán mác công ty Kline để giao cho đại lý nhằm trục lợi cá nhân. Với lí do này, ngày 20/7/2008 giám đốc công ty đã thông báo với anh: “Do có hàn vi gian lận trong công việc nên công ty sẽ chấm dứt hợp đồng lao động đối với A. Đề nghị ngày 23/7/2008 anh có mặt tại phòng họp của giám đốc để giải quyết”. Tuy nhiên, trong nội quy công ty có quy định công ty sẽ sa thải và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu nhân viên có hành vi vi phạm ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Vì vậy, tại phiên họp ngày 23/7/2008 gồm A và đại diện công ty, thay vì ra quyết định chấm dứt hợp đồng với A, trưởng phòng nhân sự đề xuất xử lý sa thải A và yêu cầu bồi thường thiệt hại với mức bằng giá trị của 02 máy lọc nước là 4 triệu đồng. Giám đốc công ty đã ra quyết định theo đề xuất của trưởng phòng nhân sự. Cho rằng công ty chỉ có quyền chấm dứt hợp đồng của mình mà không được sa thải, ngày 25/7/2008 anh làm đơn gửi hội đồng hòa giải cơ sở yêu cầu giải quyết. Chưa kịp chờ HĐHG cơ sở giải quyết, ngày 28/7/2008 anh a tiếp tục khởi kiện ra tòa án tỉnh T về việc công ty 100% vốn nước ngoài sa thải trái pháp luật đối với anh.
Hỏi:
1. Nêu nhận xét về việc giao kết HĐLĐ giữa công ty và anh A?
2. Việc sa thải và yêu cầu A bồi thường có đúng pháp luật hay không, vì sao?
3. Công ty có thể xử lý như thế nào với hành vi vi phạm của A?
4. Tòa án tỉnh T có thẩm quyền thụ lý vụ việc này không? Giả sử, nếu thụ lý, tòa án sẽ giải quyết như thế nào với vụ việc trên?

BÀI LÀM
1. Nêu nhận xét về việc giao kết HĐLĐ giữa công ty và anh A?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ Luật Lao động (BLLĐ) thì: “mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”. Như vậy, anh A có quyền tự do giao kết hợp đồng lao động với công ty X mà không ai có quyền ngăn cấm.
Theo quy định tại điều 3 BLLĐ:Công dân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tại các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt Nam và người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức và cho cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc phạm vi áp dụng của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.Qua đề bài, ta thấy đây là HĐLĐ được kí kết giữa một công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài và một cá nhân là người lao đông Việt Nam. Vì vậy, việc kí kết HĐLĐ giữa công ty Kline và anh A phải tuân thủ đầy đủ các quy định về ký kết HĐLĐ theo pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất, theo đề bài trước khi ký HĐLĐ với công ty Kline anh A phải thử việc 3 tháng tại công ty và công việc anh làm là nhân viên tiếp thị. Theo quy định tại Điều 32 BLLĐ thì:Người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận về việc làm thử, thời gian thử việc, về quyền, nghĩa vụ của hai bên. Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc ít nhất phải bằng 70% mức lương cấp bậc của công việc đó. Thời gian thử việc không được quá 60 ngày đối với lao động chuyên môn kỹ thuật cao và không được quá 30 ngày đối với lao động khác.”
Anh A làm nhân viên tiếp thị như vây chỉ là lao động bình thường, và thời hạn thử việc tối đa chỉ là 30 ngày. Việc công ty Kline thử việc anh 3 tháng đã vi phạm quy định tại Điều 32 BLLĐ.
Thứ hai, theo đề bài ta thấy tại HĐLĐ hai bên kí ngày 1/5/2005 có thỏa thuận thời hạn hợp đồng là 5 năm nhưng nếu người lao động làm tốt có thể kéo dài.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 27 BLLĐ thì:
“Điều 27.
1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:
 a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
 Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng;
 b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn.
 Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng;
 c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.”
Ta thấy hợp đồng lao động có thời hạn 5 năm được giao kết giữa anh A và công ty Kline không đúng với các loại hợp đồng mà pháp luật cho phép giao kết theo quy định tại Điều 27 BLLĐ.
Thứ ba, trong hợp đồng lao động có 1 điều khoản HĐLĐ sẽ chấm dứt nếu công ty phát hiện ra sự thiếu trung thực trong công việc”. Chúng ta cần hiểu việc chấm dứt HĐLĐ trong trường hợp này là hành động đơn phương chấm dứt HĐLĐ của người sử dụng lao động chứ không phải HĐLĐ chấm dứt trong những trường hợp quy định tại Điều 36 Bộ luật lao động và vic đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ được quy đinh Điều 38 BLLĐ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 BLLĐ thì:
“Điều 38.
 1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
 a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng;
 b) Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật này;
 c) Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng ốm đau đã điều trị sáu tháng liền và người lao động làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng ốm đau đã điều trị quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng lao động;
 d) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
 đ) Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động.”
Như vậy, người lao động chỉ bị chấm dứt hợp đồng lao động nếu xảy ra các trường hợp quy định tại Điều 38 Luật Lao động. Việc công ty thỏa thuận với anh A hợp đồng lao động sẽ chấm dứt nếu “công ty phát hiện ra sự thiếu trung thực trong công việc” là không đúng quy định pháp luật, bởi có những hành vi thiếu trung thực nhưng nhỏ nhặt thì sẽ không có đủ căn cứ để công ty chấm dứt hợp đồng lao động với anh A. Chỉ khi xảy ra một trong những điều được quy định tài điều 38 BLLĐ thì công ty mới có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với anh A.
2. Việc sa thải và yêu cầu A bồi thường có đúng pháp luật hay không, vì sao?
Theo đề bài thì: “nội quy công ty có quy định công ty sẽ sa thải và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu nhân viên có hành vi vi phạm ảnh hưởng đến uy tín của công ty”. Còn theo Khoản 1, Điều 85 BLLĐ thì:
“Điều 85.
1. Hình thức xử lý kỷ luật sa thải chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
 a) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp;
 b) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm;
 c) Người lao động tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng.”
 Như vậy, ta thấy nội quy công ty không đúng với quy định của pháp luật lao động. Công ty chỉ có quyền sa thải nếu người lao động có hành vi vi phạm được quy định tại Khoản 1 Điều 85 Luật Lao động, chứ không phải mọi hành vi vi phạm ảnh hưởng đến uy tín của công ty đều bị sa thải.
Theo đề bài thì: “Ngày 10/7/2008 khi kiểm tra công việc của nhân viên tiếp thị, tổ trưởng phát hiện ra 02 máy lọc nước giao cho địa lý không phù hợp chủng loại và không có giấy giao hàng. Khi được hỏi, A đã thú nhận lấy máy tương tự của công ty khác dán mác công ty Kline để giao cho đại lý nhằm trục lợi cá nhân.”
Hành vi của A không phải là trộm cắp, tham ô, không phải tiết lộ bí mật công nghệ, không phải bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương, chuyển làm công việc khác, bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm, không phải tự ý bỏ việc năm ngày cộng dồn trong một tháng hoặc hai mươi ngày cộng dồn trong một năm mà không có lý do chính đáng. Như vậy, hành vi gian dối đổi hai máy lọc nước của A để trục lợi chỉ được coi là hành vi khác gây thiệt hại về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 85 thì người lao động chỉ bị sa thải nếu có hành vi gây thiệt hại khác “nghiêm trọng” về tài sản, lợi ích của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 14, Nghị định 41/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất thì: Mức thiệt hại được coi là không nghiêm trọng theo Điều 89 của Bộ Luật lao động là mức thiệt hại gây ra dưới 5 triệu đồng.. Như vậy, mức thiệt hại được coi là nghiêm trọng sẽ có giá trị từ 5 triệu trở lên. Cũng theo đề bài đưa ra thì giá trị của hai máy lọc nước mà A đã đổi để trục lợi là 4 triệu đồng. Như vậy, ta có thể thấy hành vi của A gây thiệt hại chưa đến mức nghiêm trọng về tài sản, lợi ích công ty, A chưa đến mức bị xử lí kỉ luật sa thải.
Ngoài ra, hành vi vi phạm của A là lỗi cố ý gây thiệt hại cho tài sản, lợi ích công ty. Quy định của Luật Lao động về trách nhiệm vật chất tại các Điều 89, 90 chỉ quy định đối với lỗi vô ý. Trong trường hợp này, trách nhiệm vật chất của A sẽ được áp dụng theo Bộ Luật dân sự 2005 và sẽ được công ty cụ thể hóa trong nội quy lao động. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 605 Bộ Luật Dân sự 2005 thì:
Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Theo nội quy thì “công ty sẽ sa thải và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu nhân viên có hành vi vi phạm ảnh hưởng đến uy tín của công ty”. Hành vi của A có gây thiệt hại ảnh hưởng đến uy tín công ty, tuy nhiên thiệt hại đến uy tín là khó xác định giá trị, và việc công ty quyết định bắt A đền bù uy tín bằng giá trị 2 máy lọc nước là 4 triệu đồng là không phù hợp. Và theo Điều 605 BLDS 2005 thì ta thấy phương thức bồi thường thiệt hại do hai bên thỏa thuận.
Như vậy, ta có thể khẳng định, việc sa thải và yêu cầu A bồi thường thiệt hại là không đúng quy định pháp luật.
Đồng thời trình tự xử lý kỉ luật của công ty Kline áp dụng đối với anh A cũng không đúng quy định của pháp luật vì theo quy định tại Điều 87 BLLĐ:
“1- Khi tiến hành việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động.
2- Người lao động có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bào chữa.
3- Khi xem xét xử lý kỷ luật lao động phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
4- Việc xem xét xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản.”
Trong phiên họp kỉ luật lao động chỉ có anh A, và đại diện công ty mà không có sự có mặt của công đoàn do vậy việc xử lý kỉ luật này là sai quy định của pháp luật về thủ tục tiến hành xử lí kỉ luật.
3. Công ty có thể xử lý như thế nào với hành vi vi phạm của A?
Ta thấy hành vi vi phạm của A không thuộc một trong các hành vi quy định tại Khoản 1, Điều 38 BLLĐ. Như vậy, công ty Kline không có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với A.
Theo như phân tích ở ý 2, ta có thể khẳng định hành vi đổi máy lọc nước để trục lợi của anh A chưa đến mức bị sa thải. Tuy nhiên, hành vi này là một hành vi vi phạm kỉ luật lao động, đã được quy định trong nội quy công ty. Vì vậy, A sẽ phải chịu một hình thức kỉ luật được quy định tại Điều 84 BLLĐ.
“Điều 84:
 1. Người vi phạm kỷ luật lao động, tùy theo mức độ phạm lỗi, bị xử lý theo một trong những hình thức sau đây:
a) Khiển trách;
 b) Kéo dài thời hạn nâng lương không quá sáu tháng hoặc chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng hoặc cách chức;
 c) Sa thải.”
2. Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động.”
Như vậy, A sẽ phải chịu hình thức kỷ luật khiển trách hoặc kéo dài thời hạn nâng lương.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 6, Nghị định 33/2003 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 41/CP ngày 06 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất thì: Hình thức khiển trách bằng miệng hoặc bằng văn bản được áp dụng đối với người lao động phạm lỗi lần đầu, nhưng ở mức độ nhẹ.”. Thực tế áp dụng tại các doanh nghiệp cho thấy, hình thức khiển trách thường áp dụng đối với các hành vi vi phạm nhỏ như đi làm muộn, làm việc riêng trong giờ làm việc,…
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 6 Nghị định 33/2003 thì Hình thức kéo dài thời hạn nâng bậc lương không quá sáu tháng hoặc chuyển làm việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng hoặc cách chức được áp dụng đối với người lao động đã bị khiển trách bằng văn bản mà tái phạm trong thời hạn ba tháng kể từ ngày bị khiển trách hoặc những hành vi vi phạm đã được quy định trong nội quy lao động. Người sử dụng lao động căn cứ vào mức độ vi phạm kỷ luật của người lao động, tình hình thực tế của doanh nghiệp và hoàn cảnh của người lao động để lựa chọn một trong ba hình thức quy định tại khoản này”. Ta có thể thấy, hành vi của A gây thiệt hại đối với tài sản, lợi ích của công ty ở mức hai chiếc máy lọc nước là 4 triệu đồng. Nếu thiệt hại là 5 triệu đồng, công ty Kline đã có đủ cơ sở để sa thải A. Như vậy, ta có thể thấy, hành vi vi phạm của A tuy chưa đến mức nghiêm trọng, bị sa thải nhưng cũng không phải là hành vi nhỏ, và nó còn gây ảnh hưởng đến uy tín của công ty, đã được quy định trong nội quy công ty.
Như vậy, trong trường hợp này, hình thức xử lí kỉ luật họp lý là Kline có thể kéo dài thời hạn nâng lương của A không quá sáu tháng hoặc chuyển A làm công việc khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn tối đa là sáu tháng hoặc cách chức. Ngoài ra, A đã đánh tráo hai máy lọc nước của công ty để trục lợi, công ty có thể yêu cầu A trả lại hai chiếc máy lọc nước đó hoặc có thể thỏa thuận A phải bồi thường một khoản tiền nhất định.
4. Tòa án tỉnh T có thẩm quyền thụ lý vụ việc này không? Giả sử, nếu thụ lý, tòa án sẽ giải quyết như thế nào với vụ việc trên?
4.1 Thẩm quyền thụ lý vụ việc của Tòa án nhân dân tỉnh T.
Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án là hoạt động giải quyết tranh chấp do tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục nhất định và phán quyết được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Theo tình huống đề bài đưa ra, xét yếu tố thỏa mãn các thẩm quyền thụ lý tranh chấp lao động tại Tòa án như sau:
Thứ nhất, về mặt nguyên tắc và thẩm quyền chung, tòa án có thẩm quyền giải quyết những vụ việc phát sinh từ quan hệ lao động do pháp luật lao động điều chỉnh, trừ các yêu cầu về giải quyết đình công. Các vụ việc về tranh chấp lao động cá nhân được quyền yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 165 BLLĐ: “Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm:
1.     Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2.     Tòa án nhân dân.
Đối với trường hợp cá nhân anh A và công ty Kline có xảy ra tranh chấp lao động, mà cụ thể là tranh chấp về việc anh A không đồng ý với quyết định kỉ luật sa thải của công ty Kline. Anh A làm đơn gửi hội đồng hòa giải cơ sở yêu cầu giải quyết. Chưa kịp chờ HĐHG cơ sở giải quyết, anh A tiếp tục khởi kiện ra tòa án tỉnh T. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 166 BLLĐ:
2. Tòa án nhân dân giải quyết những tranh chấp lao động cá nhân sau đây mà không bắt buộc qua hòa giải cơ sở:
a)    Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.”
Và theo Điểm a Khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 về những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
Điều 31. Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
1. Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở:
a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;”
 Như vậy, tòa án nhân dân hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa anh A và công ty Kline mặc dù chưa thông qua hòa giải cơ sở.
Thứ hai, về thẩm quyền riêng của Tòa án nhân dân các cấp, theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 33 BLTTDS thì:
Điều 33. Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
c) Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2, Điều 34 BLTTDS thì:
Điều 34. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
2. Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật này mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết”.
Như vậy, ta thấy Tòa án tỉnh T có thẩm quyền thụ lý vụ việc này.
4.2 Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân ở tòa án.
a. Khởi kiện và thụ lý vụ án.
Khi có đơn khởi kiện của các chủ thể với đầy đủ các nội dung và hình thức  theo yêu cầu của Điều 164, 165, 166 BLTTDS 2004 và đáp ứng được các điều kiện sau đây:
+ Có đầy đủ giấy tờ xác nhận: về việc anh A là nhân viên của công ty Kline với 100% vốn nước ngoài, kinh doanh sản phẩm máy lọc nước có trụ sở tại quận H tỉnh T. Cụ thể ở đây là hợp đồng lao động đã được kí kết giữa anh A và công ty Kline.
+ Về mặt thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 167 BLLĐ thì trong trường hợp này, khoảng thời gian anh A và công ty Kline có xảy ra tranh chấp vẫn nằm trong thời hiệu quy định.
+ Về vấn đề hòa giải: Theo tình huống đưa ra, thỏa mãn quy định trong khoản 2 Điều 166 BLLĐ: “2. Tòa án nhân dân giải quyết những tranh chấp lao động cá nhân sau đây mà không bắt buộc qua hòa giải cơ sở:
Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.”
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 166 BLLĐ thì: “Người lao động được miễn án phí trong các hoạt động tố tụng để đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, để giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.”.
Nếu xem xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và đáp ứng đầy đủ các điều kiện thụ lí thì Tòa án nhân dân tỉnh T phải tiến hành thụ lí vụ án ngay theo quy định tại Khoản 4 Điều 171 BLTTDS. Kể từ đây, tòa án chính thức xác nhận thẩm quyền và trách nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ án lao động.
b. Chuẩn bị xét xử và hòa giải.
Đối với tranh chấp lao động, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là 2 tháng (Điều 179 - BLTTDS). Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tòa án nhân dân tỉnh T phải thực hiện các hoạt động nghiệp vụ như thông báo trước về việc thụ lí vụ án (Điều 174 - BLTTDS), xác định các chứng cứ, tài liệu có liên quan và yêu cầu đương sự cung cấp hoặc thu thập chứng cứ để làm hồ sơ vụ án. Trong quá trình xây dựng và nghiên cứu hồ sơ, nếu phát hiện có các căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết vụ án được quy định tại Điều 189 hoặc căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 192 – BLTTDS), tòa án ra các quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết tranh chấp đó.
Hoạt động quan trọng hơn cả trong quá trình thụ lí vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh T phải thực hiện là tiến hành hòa giải. Đây là thủ tục tố tụng bắt buộc trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm (khoản 1 Điều 180 BLTTDS). Nếu trong trường hợp giữa anh A và công ty Kline hòa giải thành thì việc giải quyết vụ án sẽ chấm dứt. Theo quy định từ Điều 180 đến 188 – BLTTDS, tòa án nhân dân tỉnh T cần phải thực hiện đúng các trình tự trong quá trình hòa giải. Công tác hòa giải mang tính chất dung hòa lợi ích của các bên, có ý nghĩa to lớn trong việc tạo điều kiện không chỉ đối với các đương sự mà còn đối với cả tòa án. Ngược lại, nếu công tác hòa giải không thành thì thông qua đó, tòa án đã điều kiện để tìm hiểu rõ hơn, tạo cơ sở để tiếp tục tiến hành công tác xét xử.
c. Phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Phiên tòa lao động sơ thẩm được điều hành bởi hội đồng xét xử sơ thẩm. Theo quy định tại điều 52 BLTTDS thì thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án lao động gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân (trừ trường hợp đặc biệt). Đối với án tranh chấp lao động như đề bài nêu trên thì phiên tòa sẽ được tiến hành qua bốn bước:
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa: khai mạc phiên tòa, xem xét, quyết định các vấn đề phát sinh…
- Thủ tục hỏi tại phiên tòa: Xem xét, đánh giá tính chính xác của căn cứ, xác định sự thật khách quan của vụ án, nghe lời khai từ các đương sự;  công bố và giám định tài liệu…
- Tranh luận tại phiên tòa: Các bên đưa ra ý kiến của mình, tranh luận một cách dân chủ, công khai; sau khi các bên đã tranh luận xong thì chủ tọa và đại diện viện kiểm sát sẽ phát biểu ý kiến và nêu phương hướng giải quyết.
- Nghị án và tuyên án: Đây là bước cuối cùng của phiên tòa xét xử sơ thẩm. Thông qua nghị án, hội đồng xét xử xem xét các chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa. Việc nghị án được tiến hành ở phòng riêng theo quy định của BLTTDS. Sau khi nghị án, chủ tọa phiên tòa tuyên án tại phòng xét xử và tiến hành áp dụng kết quả cuối cùng đó.
Sau phiên tòa sơ thẩm, nếu các bên không có kháng cáo, kháng nghị thì bản án có hiệu lực thi hành. Còn ngược lại, tòa án nhân dân cấp cao hơn sẽ tiến hành thủ tục xét xử phúc thẩm.














Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét